0- Đại-cương
1- Thượng-cổ thời-đại (2879-111 trước Tây-lịch)
2- Bắc thuộc thời đại
(111 trước Tây-lịch-931 sau Tây-lịch)
3- Thời đại tự-chủ
3.1 Nhà Ngô (939-965)
3.2 Nhà Đinh (968-980)
3.3 Nhà Tiền Lê (980-1009)
3.4 Nhà Lý (1010-1225)
3.4 Nhà Lý (1010-1225)
3.5 Nhà Trần (1225-1400)
3.5.1 Trần Thái Tông
3.5.2 Trần Thánh Tông
3.5.3 Trần Nhân Tông
GIẶC NGUYÊN LẦN THỨ 1 (1284)
Hốt Tất Liệt cứ bắt Nhân Tông sang chầu, vua sai chú họ là
Trần Di Ái đi thế.
Nhà Nguyên muốn đặt quan liêu-thuộc để sang giám-trị các châu huyện nước ta. Quan nhà Nguyên sang đến nơi, Nhân-tông không nhận, đuổi về Tàu.
Nguyên chủ tức giận, lập Trần Di Ái làm An Nam quốc vương và sai Sài Thung đem 1000 quân đưa về lên ngôi. Về đến gần ải Nam-quan, có tin phi-báo về Kinh-đô, Nhân-tông liền sai tướng dẫn một đội quân lên đón đường đánh lũ nghịch-thần. Sài Thung bị tên bắn mù mất một mắt, trốn chạy về Tàu, còn lũ Trần di Ái bị bắt, phải tội đồ làm lính.
Nhà Nguyên muốn đặt quan liêu-thuộc để sang giám-trị các châu huyện nước ta. Quan nhà Nguyên sang đến nơi, Nhân-tông không nhận, đuổi về Tàu.
Nguyên chủ tức giận, lập Trần Di Ái làm An Nam quốc vương và sai Sài Thung đem 1000 quân đưa về lên ngôi. Về đến gần ải Nam-quan, có tin phi-báo về Kinh-đô, Nhân-tông liền sai tướng dẫn một đội quân lên đón đường đánh lũ nghịch-thần. Sài Thung bị tên bắn mù mất một mắt, trốn chạy về Tàu, còn lũ Trần di Ái bị bắt, phải tội đồ làm lính.
- Thoát Hoan
sang đánh lần thứ 1
Hốt Tất Liệt tức giận lắm, bèn sai con thứ 9 là Thoát
Hoan làm Trấn-nam-vương, cùng với bọn Toa-Đô, Ô mã Nhi dẫn 50 vạn quân, giả tiếng
mượn đường đi qua nước Nam sang đánh Chiêm-thành.
Biết được tin ấy, Nhân-tông hội các vương-hầu, bách quan
lại bàn kế chống giữ. Có những quan chủ hoà, duy có Trần quốc Tuấn và Trần
khánh Dư quyết xin đem quân đi phòng-giữ các nơi hiểm-yếu, chặn quân Mông-cổ. Nhân-tông ưng
nghe lời ấy, phong cho Hưng-đạo-vương Trần-quốc-Tuấn làm Tiết-chế thống-lĩnh mọi
quân đi chống giữ với quân Nguyên.
Qua tháng 8 năm giáp-thân (1284) ông Trần quốc Tuấn truyền hịch cho các
vương-hầu hội hết quân-sĩ tại bến Đông-bộ-đầu để điểm-duyệt. Quân thủy và quân
bộ hết cả thảy 20 vạn.
Ông Trần quốc Tuấn truyền cho các tướng-sĩ rằng: "Bản-chức
phụng-mệnh thống đốc quân-sĩ ra phá giặc. Các vương-hầu và các tướng-sĩ, ai nấy
phải cần giữ phép-tắc, đi đâu không được nhiễu dân và phải đồng lòng hết sức
đánh giặc, chớ thấy thua mà ngã lòng, chớ thấy được mà tự kiêu, việc quân có luật,
phép nước không thân, các ngươi phải giữ ". Xong rồi sai các tướng chia ra
đóng các nơi hiểm-yếu. Trần quốc Tuấn tự dẫn đại quân đóng ở Vạn-kiếp (tức là
làng Kiếp-bạc thuộc Hải-dương) để tiếp-ứng cho các nơi.
- Hội-nghị Diên Hồng
Được ít lâu, Nhân-tông nghe tin về báo rằng nhà Nguyên sắp
sửa kéo sang mặt Lạng-sơn. Vua có ý lo quân ta không địch nổi, bèn sai sứ mang
đồ lể sang Tàu, xin vua nhà Nguyên hoãn binh, để thương-nghị lại.
Vua nhà Nguyên không nghe, sai Thoát Hoan cứ việc tiến
binh sang. Nhân-tông thấy vậy, lập tức cho triệu các bô-lão dân-gian hội tại điện
Diên-hồng để bàn xem nên hòa hay nên
chiến. Các bô-lão đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân-gian một lòng như vậy,
cũng quyết ý kháng cự.
Trong thời-điểm này, chúng ta phải nhớ đến
Hoài văn hầu Trần quốc Toản vì còn quá trẻ (16 tuổi) không được vua cho
tham-gia hội-nghị, giận quá, bóp nát quả cam trong tay lúc nào không hay. Sau
đó, Quốc
Toản lui về, huy động hơn nghìn gia nô và người nhà thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền,
viết lên cờ sáu chữ:"Phá cường địch, báo hoàng ân" (phá giặc mạnh,
báo ơn vua). Khi ra trận, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải
lui tránh, không dám chống lại. Đến
khi mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế, lại gia phong vương.
- Trần Hưng-đạo-vương thua, rút về Vạn-Kiếp
Thoát Hoan thì kéo đại binh đến ải-quan, sai người đưa
thư sang nói cho mượn đường đi đánh Chiêm-thành. Nhân-tông thoái-thác, Thoát
Hoan nổi giận, thúc quân kéo sang mạn Lạng-sơn. Hưng-đạo-vương phân binh giữ ải
Khả-li và Lộc-châu (thuộc Lạng-sơn), còn mình thì tự dẫn quân đi đóng giữ núi
Kì-cấp.
Sau khi đánh nhau mấy trận không phân thắng bại, Hưng-đạo-vương
kém thế, thua chạy về Vạn-kiếp. Các tướng thu nhặt tàn quân dần dần cũng kéo về
đấy cả.
Nhân-tông nghe Hưng-đạo-vương thua chạy về Vạn-kiếp, liền
ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải-đông (tức là Hải-dương) rồi cho vời Hưng-đạo-vương
đến bàn việc, nhân thấy quân mình thua, trong bụng lo sợ, mới bảo Hưng-đạo-vương
rằng: "Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân-sự tàn-hại, hay là trẫm
hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân".
Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Bệ-hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân-đức, nhưng mà Tôn-miếu xã-tắc thì
sao? Nếu bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ
hàng!". Vua nghe lời nói trung-liệt như vậy, trong bụng mới yên.
Hưng-đạo-vương chiêu-tập quân các đạo, hội tại Vạn-kiếp
được hơn 20 vạn quân, thế lại nổi to. Bấy giờ Hưng-đạo-vương có soạn ra một quyển
Bình-thư yếu-lược rồi truyền hịch khuyên-răn các tướng-sĩ.
(Bài hịch tướng sĩ này khá dài nên không
đăng được nơi đây. Bạn nào muốn đọc, xin mời vào http://vanhaiphong.com/tac-pham/678-hch-tng-s-trn-trng-kim-dch.html )
- Thành Thăng Long Thất Thủ
Các tướng-sĩ được lời khuyên- răn ấy, ai nấy hết lòng luyện-tập,
quyết chí đánh giặc, cho nên người nào cũng lấy mực thích vào cánh tay hai chữ
"Sát Đát " nghĩa là giết quân Mông-cổ. Khi Thoát Hoan lấy xong các ải
ở Lạng-sơn rồi, thừa thắng đánh xuống Vạn-kiếp. Quân An-nam non thế, địch không
nổi thua chạy, bao nhiêu chiến thuyền mất cả. Quân Mông-cổ bắt được quân An-nam
thấy người nào cũng có hai chữ "Sát Đát" ở cánh tay, giận lắm, đem giết
sạch cả.
Thoát Hoan thừa thắng đánh dần thành Thăng-long.
Hưng-đạo-vương rước xa-giá Thượng-hoàng và vua ra ngoài
Thăng-long.
- Toa Đô Đánh Nghệ An
Toa Đô là tướng đạo thứ hai của quân Nguyên, đi đường bể sang đánh Chiêm-thành, nhưng mà quân nước Chiêm giữ được các đường hiểm-yếu, đánh mãi không được. Nguyên chúa hạ chiếu sai Toa Đô theo đường bộ kéo ra mặt Nghệ-an, hợp với quân Thoát Hoan để đánh An-nam.
Toa Đô là tướng đạo thứ hai của quân Nguyên, đi đường bể sang đánh Chiêm-thành, nhưng mà quân nước Chiêm giữ được các đường hiểm-yếu, đánh mãi không được. Nguyên chúa hạ chiếu sai Toa Đô theo đường bộ kéo ra mặt Nghệ-an, hợp với quân Thoát Hoan để đánh An-nam.
- Hưng Đạo Vương Đem Vua Về Thanh Hóa
Bấy giờ Hưng-đạo-vương dẫn các tướng hộ-vệ xa-giá xuống Thiên-trường, nghe Toa Đô từ vùng trong kéo ra, bèn tâu vua xin sai Thượng-tướng Trần quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ-an, chặn đường Toa Đô, và sai Trần bình Trọng ở lại giữ Thiên-trường cự nhau với quân Thoát Hoan, rồi rước xa-giá ra Hải-dương.
Bấy giờ Hưng-đạo-vương dẫn các tướng hộ-vệ xa-giá xuống Thiên-trường, nghe Toa Đô từ vùng trong kéo ra, bèn tâu vua xin sai Thượng-tướng Trần quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ-an, chặn đường Toa Đô, và sai Trần bình Trọng ở lại giữ Thiên-trường cự nhau với quân Thoát Hoan, rồi rước xa-giá ra Hải-dương.
Trần quang Khải vào đến Nghệ-an, chia quân phòng giữ,
nhưng mà quân nhà Nguyên thế mạnh, đi đến đâu đánh tan đến đấy, lại có Ô mã Nhi
ở mặt bể đánh vào. Quang Khải đương không nổi, phải chịu mất Nghệ-An.
Ở Thiên-trường, Trần
bình Trọng thấy quân nhà Nguyên đã đến bãi Đà-mạc, liền đem binh ra đánh,
nhưng chẳng may bị vây bắt. Quân Nguyên đưa Bình Trọng về nộp cho Thoát Hoan.
Thoát Hoan biết Bình Trọng là tướng khỏe-mạnh, muốn khuyên-dỗ về hàng, thết-đãi
cho ăn-uống, nhưng Bình Trọng không ăn, dỗ-dành hỏi dò việc nước, Bình Trọng
cũng không nói. Sau Thoát Hoan hỏi rằng: "Có muốn là vương đất Bắc
không?" Bình Trọng quát lên rằng: "Ta
thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có
một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi-thôi!"
Thoát Hoan thấy dỗ không được, sai quân đem chém.
Thoát Hoan thấy dỗ không được, sai quân đem chém.
Hưng-đạo-vương thấy thế nguy-cấp, bèn rước xa-giá ra
Quảng- yên rồi vào Thanh-hóa.
Bấy giờ quân Nguyên thế lắm, đóng khắp các nơi, nhà nước ngất-ngưởng nguy như trứng chồng. Bọn hoàng-tộc là Trần ích Tắc, Trần tú Viên đều ra hàng Thoát Hoan cả. Chỉ có Hưng-đạo-vương phụng xa-giá đi, trèo non vượt bể, trải gió dầm mưa, thế lực tuy cùng, nhưng vẫn bền vững một lòng, tìm kế đánh giặc, lo liệu việc nước không rối sợ lúc nào. Thật là một người có tài đại-tướng, có thể cứu dân giúp nước, tiếng để muôn đời.
Bấy giờ quân Nguyên thế lắm, đóng khắp các nơi, nhà nước ngất-ngưởng nguy như trứng chồng. Bọn hoàng-tộc là Trần ích Tắc, Trần tú Viên đều ra hàng Thoát Hoan cả. Chỉ có Hưng-đạo-vương phụng xa-giá đi, trèo non vượt bể, trải gió dầm mưa, thế lực tuy cùng, nhưng vẫn bền vững một lòng, tìm kế đánh giặc, lo liệu việc nước không rối sợ lúc nào. Thật là một người có tài đại-tướng, có thể cứu dân giúp nước, tiếng để muôn đời.
Trận Hàm Tử Quan: Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô
Đạo quân của Toa Đô ở Chiêm-thành kéo ra đánh lấy đất Nghệ-an.
Trần quang Khải đem quân lùi ra mặt ngoài giữ các đường hiểm-yếu. Toa Đô đánh
mãi không được, mà lương-thảo thì một ngày một cạn, bèn cùng với Ô mã Nhi dẫn
quân xuống thuyền vượt bể ra ngoài Bắc để hợp binh với Thoát Hoan.
Trần quang Khải được tin ấy, cho người về Thanh-hóa phi
báo. Nhân-tông sai Chiêu-văn-vương Trần nhật Duật làm tướng và Trần quốc Toản
làm phó-tướng cùng với Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đường đánh Toa Đô ở mặt
Hải-dương. Tháng tư năm ất-dậu (1285) Trần nhật Duật ra đến Hàm-tử (thuộc huyện
Đông-an, Hưng-yên) thì gặp chiến thuyền của Toa Đô, Nhật Duật liền phân binh ra
đánh. Quân Nhật Duật bấy giờ có bọn Triệu Trung là tướng nhà Tống sang xin tùng
chinh, mặc áo, đeo cung như quân nhà Tống. Đến khi giáp trận, quân Nguyên trông
thấy bọn Triệu Trung, tưởng là nhà Tống đã khôi-phục được nước Tàu, rồi cho
quân sang cứu An-nam, đứa nào cũng sợ-hãi bỏ chạy. Quân ta đuổi đánh, quân giặc
thua to chết hại rất nhiều. Toa Đô phải lùi ra ở bãi Thiên-trường.
Hưng-đạo-vương được tin mừng ấy, vào tâu với vua rằng:
"Quân ta mới thắng, khí-lực đang hăng, mà quân Nguyên mới thua, tất cũng
chột dạ. Vậy nên nhân dịp này mà tiến quân đánh Thoát Hoan để khôi phục kinh-thành".
Vua liền sai Trần Quang Khải ra đánh Thăng-long và sai Trần
nhật Duật đóng quân giữ chặn đường không cho bọn Toa Đô kéo lên hợp với Thoát
Hoan.
Trận Chương-Dương-Độ :Trần Quang Khải khôi phục Thăng Long
Khi bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng-long,
còn chiến thuyền thì lại đóng ở bến Chương-dương, địa phận huyện Thượng-phúc.
Trần quang Khải với Trần quốc Toản và Phạm ngũ Lão đem
quân từ Thanh-hóa đi thuyền, vòng đường bể ra đến bến Chương-dương, sấn vào
đánh chiến-thuyền của quân Nguyên. Quan quân đánh hăng quá, quân Nguyên địch
không nổi phải bỏ chạy. Quan quân lên bộ đuổi đánh về đến chân thành Thăng-long
hạ trại. Thoát Hoan đem đại quân ra cự địch, bị phục binh của Trần quang Khải
đánh úp lại, quân Nguyên phải bỏ thành Thăng-long chạy qua sông Hồng-hà sang giữ
mặt Kinh-bắc (Bắc-ninh).
Trần quang Khải đem quân vào thành mở tiệc khao quân và
sai người về Thanh-hoá báo tin thắng trận. Vua Nhân-tông thấy quân thế đã mạnh,
trong hai tháng đánh được hai trận, quân-sĩ ai nấy đều nức lòng đánh giặc, bèn
rước Thượng-hoàng và cất binh-mã ra đóng ở Tràng-an (Ninh-bình).
Trận Tây Kết : Tướng Nhà Trần Chép Được Toa Đô
Toa Đô đóng quân ở Thiên-trường xa cách Thoát Hoan hơn
200 dặm, cho nên chưa biết Thoát Hoan đã thua chạy về Bắc-giang rồi, bèn tiến
binh vào đóng ở sông Thiên-mạc, định để hợp sức với Thoát Hoan làm thế ỷ-giốc.
Được mấy hôm Toa Đô biết đạo tiền quân của mình đã bại trận, mà các bến thì chỗ
nào cũng có quân nhà Trần án ngữ, mới lui về đóng ở Tây-kết rồi cho người đi dò
xem quân Thoát Hoan đóng ở đâu.
Quân An-nam từ khi đánh được trận Hàm-tử và trận
Chương-dương rồi, quân-thế phấn chấn lắm. Hưng-đạo-vương mừng rỡ, vào tâu với
Nhân- tông xin một mặt sai Trần nhật Duật, hợp với Trần quang Khải dẫn quân chặn
các đường, không cho Thoát Hoan, Toa Đô đi lại thông tin với nhau, và một mặt
xin tự tiến binh ra đánh Toa Đô, rồi đánh Thoát Hoan.
Nhân-tông nghe lời ấy, cho Hưng-đạo-vương tùy ý mà sai khiến.
Khi quân ra đến Tây-kết, Hưng-đạo-vương chia quân ra đánh trại quân Nguyên, và
đặt phục binh để bắt Toa Đô.
Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên không địch nổi, Toa Đô
và Ô mã Nhi đem binh lên bộ chạy ra mặt bể, nhưng khi chạy đến mé sau một dãy núi, thì bị quân An-nam vây đánh, Toa Đô
trúng tên chết, còn Ô mã Nhi thì tìm đường chạy vào Thanh-hóa, nhưng bị quân ta
đánh đuổi ngặt quá, phải một mình lẻn xuống chiếc thuyền con chạy ra bể, trốn về
Tàu được.
Khi các tướng thắng trận, đưa đầu Toa Đô về nộp, Nhân-tông
thấy người dũng-kiện mà lại hết lòng với chúa, mới than rằng: "Làm bầy tôi
nên như người này!" rồi cởi áo ngự-hào đắp vào đầu Toa Đô, sai quan dùng lễ
mai-táng cho tử-tế.
Trận Tây-kết đánh vào tháng năm, năm ất-dậu (1285) quan
quân bắt được quân Nguyên hơn 3 vạn người, và chiến-thuyền, khí-giới nhiều vô kể. Hưng-đạo-vương được trận toàn thắng, mở tiệc khao thưởng ba
quân, rồi lên đánh mặt bắc, để tiểu-trừ Thoát Hoan.
Bấy giờ Thoát Hoan đóng quân ở Bắc-giang, nghe tin đồn
Toa Đô tử trận, Ô mã Nhi đã trốn về Tàu, quân-binh tướng-sĩ ai nấy đều ngã lòng
cả. Vả lại trời đang mùa hè nóng-nực khó chịu, sơn-lam chướng-khí bốc lên,
quân-sĩ bị dịch-tễ chết hại cũng nhiều. Bởi thế có bụng muốn rút quân về Tàu.
Hưng-đạo-vương cũng biết cơ Thoát Hoan tất phải chạy, liền
sai Nguyễn Khoái, Phạm ngũ Lão dẫn 3 vạn quân đi lên đường núi, phục sẵn hai
bên rừng sậy ở bên sông Vạn-kiếp, để chờ lúc quân Nguyên chạy đến thì đổ ra
đánh. Ngài sai hai con là Hưng-võ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy dẫn 3 vạn quân
đi đường Hải-dương ra mặt Quảng-yên, giữ chặn đường về châu Tư-minh. Hưng-đạo-vương
tự dẫn đại quân lên Bắc-giang đánh giặc.
Quân Nguyên thua chạy, Thoát Hoan dẫn đại binh chạy đến bến Vạn-kiếp, gặp bọn
Nguyễn Khoái ra đánh, quân Nguyên mười phần tổn-hại mất năm. Tướng nhà Nguyên
là Lý Hằng bị tên bắn chết. Còn Thoát Hoan, Phàn Tiếp, A bát Xích, Lý Quán cố sức
đánh lấy đường mà chạy. Sau thấy quân An-nam đuổi kíp quá, Thoát Hoan phải chui
vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy. Về gần đến châu Tư-ninh lại gặp bọn
Hưng-võ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy đánh đuổi một trận nữa. Lý Quán
trúng tên bắn chết. Thoát Hoan, A bát Xích và Phàn Tiếp chạy thoát về Tàu được.
Thế là Đại-quân của Thoát Hoan lúc đầu mới sang lừng-lẫy
bao nhiêu, bây giờ tan nát mất cả. Trong sáu tháng trời, từ tháng chạp năm giáp thân (1284) đến tháng sáu năm ất dậu
(1285), 20 vạn quân An-nam đuổi 50 vạn quân Mông-cổ ra ngoài bờ-cõi, chỉnh-đốn
giang-sơn lại như cũ. Ấy cũng nhờ có tay Hưng-đạo-vương có tài đại-tướng, cầm
quân vững-chãi, gan bền tựa sắt, và lại khéo dùng lời khuyên-dỗ, khiến cho bụng
người cảm-động, sinh lòng trung-nghĩa, cho nên tướng-sĩ ai nấy đều hết lòng
giúp nước.
Vả nước An-nam thời bấy giờ vua tôi hòa-hợp, lòng người
như một, nhân-tài lũ-lượt kéo ra; mà quân Nguyên sang An-nam thì đường xa muôn
dặm, núi sông cách trở, hùng mạnh được lúc đầu mà thôi, sau thành ra bệnh-tật yếu-đau.
Như thế mà lại gặp phải tay Hưng-đạo-vương dụng binh biết đợi thời,
biết thừa thế tiến thoái, cho nên việc quân nhà Nguyên thua tan-nát là tất-nhiên
vậy.
GIẶC NGUYÊN LẦN THỨ 2 (1287-1288)
Nguyên Chủ định khởi binh phục thù
Bọn Thoát Hoan bại trận về Tàu, nghĩ khi đi thì thanh-thế
lừng-lẫy, khi về thì hao binh tổn tướng, lấy làm xấu hổ lắm. Định xin
Nguyên-chủ cho thêm binh-mã sang đánh báo thù.
Hốt Tất Liệt thấy bọn Thoát Hoan bại trận về, giận lắm, muốn
bắt chém cả, nhưng quân-thần can-ngăn mãi mới thôi.
Bấy giờ nhà Nguyên đang sắp sửa cất quân sang đánh Nhật-bản,
bèn lập tức đình việc đi đánh Nhật-bản lại và sai đóng thêm 300 chiếc thuyền,
truyền hịch cho ba tỉnh Giang-hoài, Hồ-quảng, Giang-tây tụ tập quân-sĩ, định đến
tháng tám thì cất quân sang đánh nước Nam để báo
thù.
Quan tỉnh Hồ-nam là Tuyến Kha dâng sớ về can rằng: "Quân ta bại trận mới về, kẻ mang dấu-vết
chưa khỏi, người đau-yếu chưa dậy, xin hãy cho quân-sĩ nghỉ-ngơi dưỡng sức ít
lâu, rồi sẽ định kế xuất chinh". Vua nhà Nguyên nghe lời, cho quân-sĩ nghỉ vài tháng.
Nhân-tông nghe tin Nguyên-triều sắp sửa cất quân sang
đánh An-nam, bèn vời Hưng-đạo-vương vào hỏi rằng: "Thoát Hoan bại trận trở
về, chuyến này căm-tức định sang đánh báo thù, quân-thế hẳn to hơn trước, ta
nên dùng kế gì mà chống lại được?"
Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Nước ta xưa kia, quân-dân hưởng thái-bình đã lâu, không tập việc chiến-trận, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp còn có kẻ trốn-tránh theo hàng giặc. May nhờ có oai-linh Tổ-tông, và thần-võ của Bệ-hạ, đi đến đâu đánh được đến đấy, cho nên mới quét sạch được bờ-cõi. Còn như bây giờ quân ta quen việc chinh-chiến, mà quân nghịch thì đi xa mỏi-mệt. Vả lại thấy Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán tử trận, tất cũng chột dạ, quân-tình đã sinh nghi-sợ, hẳn không dám hết sức mà đánh. Cứ như ý tôi, thì chuyến này dù có quân Nguyên sang đây, ta phá cũng dễ hơn phe trước, xin bệ-hạ đừng lo".
Hưng-đạo-vương tâu rằng: "Nước ta xưa kia, quân-dân hưởng thái-bình đã lâu, không tập việc chiến-trận, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp còn có kẻ trốn-tránh theo hàng giặc. May nhờ có oai-linh Tổ-tông, và thần-võ của Bệ-hạ, đi đến đâu đánh được đến đấy, cho nên mới quét sạch được bờ-cõi. Còn như bây giờ quân ta quen việc chinh-chiến, mà quân nghịch thì đi xa mỏi-mệt. Vả lại thấy Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán tử trận, tất cũng chột dạ, quân-tình đã sinh nghi-sợ, hẳn không dám hết sức mà đánh. Cứ như ý tôi, thì chuyến này dù có quân Nguyên sang đây, ta phá cũng dễ hơn phe trước, xin bệ-hạ đừng lo".
Nhân-tông mừng rỡ, sai Hưng-đạo-vương đốc-suất các
vương-hầu, mộ thêm quân-sĩ, sửa-sang khí-giới để phòng việc công thủ.
Thoát Hoan Sang Đánh Lần Thứ Hai
Sang mùa xuân tháng hai năm đinh-hợi (1287), Nguyên-chủ
kén lấy 7 vạn quân, 5 trăm chiếc thuyền, 6 nghìn quân Vân-nam và 1 vạn 5 nghìn
quân ở bốn châu ngoài bể, sai Thoát Hoan làm Đại-nguyên-súy, cùng với A bát
Xích, Áo lỗ Xích, Ô mã Nhi, Phàn Tiếp, đem tất cả hơn 30 vạn quân sang đánh nước
Nam, giả danh đưa Trần ích Tắc về nước, lập làm An-nam quốc-vương. Lại sai Vạn-hộ
Trương văn Hổ theo đường bể tải hơn 17 vạn thạch lương sang cấp cho quân-sĩ.
Qua tháng 11, Thoát Hoan dẫn quân noi đường Châu-khâm,
châu Liêm đến châu Tư-minh; sai bọn Trương Ngọc lĩnh 2,000 quân coi việc chở
lương-thực, khí-giới. Lại sai Trình bằng Phi, Áo lỗ Xích, mỗi người dẫn 1 vạn
quân đi đường bộ, Ô mã Nhi, Phàn Tiếp suất lĩnh thủy-quân đi đường bể, đều tiến
sang An-nam.
Quan trấn-thủ ở biên-thùy phi báo về Thăng-long. Các quan
xin tuyển thêm binh. Hưng-đạo-vương nói rằng: "Binh cốt giỏi, chứ không cốt
nhiều, nếu nhiều mà không giỏi, thí-dụ như Bồ Kiên có trăm vạn quân cũng không ích
gì!"
Nhân-tông sai Hưng-đạo-vương thống-lĩnh các vương-hầu,
chia quân phòng-giữ các nơi.
Hưng-đạo-vương sai Trần nhật Duật, Nguyễn Khoái dẫn 3 vạn
quân lên giữ mặt Lạng-sơn; sai Trần quốc Toản, Lê phụ Trần dẫn 3 vạn quân và giữ
mặt Nghệ-an; tự mình thống đại quân ra giữ mặt Quảng-yên. Một mặt sai tiền-quân
lên gần châu Tư-minh chia ra đóng làm ba đồn: Sa, Từ, Trúc, để chống-giữ quân
Nguyên; một mặt sai tướng đem quân ra giữ chặt cửa sông Đại-than (thuộc Hải-dương)
còn đại-quân của ông thì đóng tại núi Phù-sơn.
Quan quân tuy đóng giữ như vậy, nhưng quân Nguyên thế to
lắm, chống không nổi, phải rút về Vạn-kiếp. Thoát Hoan tiến lên chiếm giữ núi
Phả-lại và núi Chí-linh, lập trại chống nhau với quân ta, rồi sai tướng là
Trình bằng Phi đem hai vạn lính đánh lấy đồn Vạn-kiếp, lại sai Ô mã Nhi và A
bát Xích dẫn quân từ sông Lục-đầu đánh xuống sông Hồng-hà.
Hưng-đạo-vương rút quân về giữ Thăng-long và sai tướng rước
xa-giá tạm lánh về Hán-nam. Nhưng sau khi bị bọn Ô mã Nhi đuổi ngặt quá, Thượng-hoàng
và Nhân-tông phải xuống thuyền ra bể đi vào Thanh-hóa.
Thoát Hoan đem binh-mã tiến lên vây đánh Thăng-long không
được, phải rút về giữ Vạn-kiếp, Chí-linh và Phả-lại. Hưng-đại-vương cũng tiến
quân lên lập trại để chống với giặc.
Nhân-tông thấy quân Nguyên đã lùi rồi bèn rước Thượng-hoàng
ra Bắc.
Trận Vân Đồn - Trần khánh Dư cướp lương của quân Nguyên
Quân Nguyên đóng mãi ở Vạn-kiếp, lương-thực sắp cạn, Thoát
Hoan bèn sai Ô mã Nhi dẫn thủy-quân ra cửa bể Đại-bàng đón thuyền lương của
Trương văn Hổ. Ô mã Nhi đem thuyền đi đến ải Vân-đồn gặp quân của Trần khánh Dư
chặn đường không cho đi. Ô mã Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư
thua bỏ chạy cả. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương.
Thượng-hoàng nghe tin thủy-quân ở Vân-đồn bại trận, cho sứ
ra bắt Khánh Dư về hỏi tội.
Khánh Dư từ khi thất trận, đang nghĩ kế phục binh thù, bỗng
thấy sứ ra bắt, Khánh Dư tiếp sứ rồi nói rằng: "Tôi sai tướng-lệnh đành chịu
tội, nhưng xin khoan cho tôi một vài hôm, may mà tôi lập được công khác để chuộc
tội chăng?"
Được mấy hôm, Ô mã Nhi ra bể gặp thuyền lương của Trương
văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường. Trương văn Hổ đem thuyền lương
theo vào sau.
Khánh Dư đồ rằng Ô mã Nhi đã phá được quân ta, trong bụng
hắn chắc rằng không còn ai ngăn-trở gì nữa, cho nên mới khinh thường đem binh thuyền đi trước. Khánh Dư bèn nhặt-nhạnh
thuyền-bè phục quân sẵn đợi thuyền lương của Trương văn Hổ đến thì kéo ra đánh.
Quả-nhiên, Trương văn Hổ tải các thuyền lương vào cửa bể
Lục-thủy-dương. Khánh Dư đổ quân ra đánh. Văn Hổ địch không nổi, bao nhiêu thuyền
lương bị quân của Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí giới rất nhiều. Còn
Trương văn Hổ thì chạy xuống chiếc thuyền nhỏ trốn về Quỳnh-châu.
Khánh Dư thắng trận đưa thư về báo tiệp. Thượng-hoàng mừng
rỡ, xá tội trước không hỏi, và bảo Hưng-đạo-vương rằng: "Quân Nguyên cốt
trông-cậy có lương-thảo khí-giới, nay đã bị ta cướp được cả rồi, thì thế nó
không tràng-cửu được nữa. Nhưng nó chưa biết, tất còn đắc chí, vậy ta nên tha
những quân bị bắt cho về báo tin với Thoát Hoan, thì quân-sĩ của nó tất ngã
lòng, bấy giờ mới phá rất dễ".
Hưng-đạo-vương tuân lệnh, cho lũ quân Nguyên về. Từ đấy
quân của Thoát Hoan xôn-xao, có bụng muốn về Tàu, mà lương-thực thì một ngày một
cạn.
Ô mã Nhi từ khi ở ải Vân-đồn trở về, chờ mãi không thấy
thuyền lương đến, bèn đem quân đến phá trại An-hưng (thuộc Quảng-yên) rồi rút về
Vạn-kiếp.
Trận Bạch Đằng Giang - Ô mã Nhi bị bắt
Quân Nguyên từ khi thua trận Vân-đồn, lương-thảo một ngày
một cạn đi, Thoát Hoan muốn cho người về Tàu cầu viện và lấy thêm lương, Hưng-đạo-vương
biết ý, sai tướng lên giữ núi Kỳ-cấp và ải Nữ-nhi ở mặt Lạng-sơn không cho người
Tàu đi lại.
Các tướng thấy vậy bèn vào bàn với Thoát Hoan rằng: "Quân ta đóng ở đây, thành-trì đã không
có, kho-tàng lại cạn cả; và bây giờ là đang lúc hết xuân sang hạ, khí trời nóng-nực,
mà lại những chổ hiểm-yếu đều mất cả, chi bằng hãy rút quân về, rồi sau sẽ liệu
kế khác".
Thoát Hoan thấy quân thế của Hưng-đạo-vương mạnh lắm,
chưa có thể phá được, bèn nghe lời các tướng, sai Ô mã Nhi, Phàn Tiếp dẫn thủy-quân
theo đường sông Bạch-đằng về trước. Còn mặt bộ thì sai Trình bằng Phi, Trương
Quân dẫn binh đi chặn hậu. Sửa-soạn định vài hôm nữa thì rút về.
Hưng-đạo-vương biết mưu ấy, bèn sai Nguyễn Khoái dẫn binh
lẻn qua đường tắt mé sông thượng-lưu sông Bạch-đằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt
đóng khắp giữa giòng sông, rồi phục binh chờ đến lúc nào nước thủy-triều lên
thì đem binh ra khiêu-chiến, nhử cho thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào
nước thủy-triều xuống thì quay binh lại hết sức mà đánh. Lại sai Phạm ngũ Lão,
Nguyễn chế Nghĩa dẫn quân lên phục ở ải Nội-bàng (thuộc Lạng-sơn) chờ quân
Nguyên chạy lên đến đấy thì đổ ra mà đánh.
Hưng-đạo-vương tiến quân lên đánh giặc, sực nghe tin báo
rằng Ô mã Nhi đã kéo quân về đến Bạch-đằng, Hưng-đạo-vương mới hô quân-sĩ , trỏ
sông Hóa-giang mà thề rằng: "Trận này không phá xong giặc Nguyên, thì
không về đến sông này nữa!" Quân-sĩ ai nấy đều xin quyết chiến, kéo một mạch
đến sông Bạch-đằng.
Những chiến-thuyền của Ô mã Nhi, Phàn Tiếp theo giòng
sông Bạch-đằng, bỗng chốc thấy tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái dẫn chiến-thuyền
đến khiêu-chiến. Ô mã Nhi tức giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn Khoái liền
quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy-triều lên, mặt nước mênh-mông, Ô mã Nhi
vô tình, thấy địch quân chạy, cứ thúc thuyền đuổi theo.
Nguyễn Khoái nhử quân đi khỏi xa chỗ đóng cọc, rồi mới
quay thuyền đánh vật lại. Hai bên đánh đang hăng, thì đại quân của Hưng-đạo-vương
tiếp đến. Ô mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quan quân to thế lắm, mới quay thuyền chạy
trở lại. Khi chạy đến khúc sông có cọc đóng thì nước thủy-triều đã rút xuống,
thuyền của quân Nguyên vướng mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vỡ mất nhiều.
Quan quân thừa thắng đánh cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả
khúc sông. Tướng Nguyên là Ô mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc đều bị bắt cả.
Trận Bạch-đằng-giang đánh vào tháng ba năm mậu-tí (1288)
lấy được chiến thuyền của quân Nguyên hơn 400 chiếc và bắt được quân-sĩ rất nhiều.
(Năm 938, Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt hơn 1000 năm đô-hộ. 350 năm sau, cũng trên con sông này, Trần Hưng Đạo dùng lại mưu-lược của Ngô Quyền để đánh lui quân Mông-Cổ. Ngoài ra, như lời chép của sách Đại Nam nhất thống chí “ Năm thiên phúc thứ hai tức là năm Dương lịch 981, Hầu Nhân Bảo sang xâm lược sông Bạch Đằng. Đại-tướng Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành) sai sĩ tốt đóng cọc ngăn sông, để rồi sau đó chiến-thắng quân Đại Tống.
Bạch Đằng Giang quả là một vết-tích oai hùng của lịch-sử dân-tộc).
(Năm 938, Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt hơn 1000 năm đô-hộ. 350 năm sau, cũng trên con sông này, Trần Hưng Đạo dùng lại mưu-lược của Ngô Quyền để đánh lui quân Mông-Cổ. Ngoài ra, như lời chép của sách Đại Nam nhất thống chí “ Năm thiên phúc thứ hai tức là năm Dương lịch 981, Hầu Nhân Bảo sang xâm lược sông Bạch Đằng. Đại-tướng Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành) sai sĩ tốt đóng cọc ngăn sông, để rồi sau đó chiến-thắng quân Đại Tống.
Bạch Đằng Giang quả là một vết-tích oai hùng của lịch-sử dân-tộc).
Hưng Đạo Vương Đại Phá Nguyên Binh
Thoát Hoan nghe tin quân thủy vỡ tan rồi, dẫn bọn Trình bằng
Phi, A bát Xích, Áo lỗ Xích, Trương Quân, Trương Ngọc, đi đường bộ chạy về đến ải
Nội-bàng, bỗng gặp quân phục của Phạm ngũ Lão đổ ra đánh. Các tướng hết sức giữ
gìn Thoát Hoan, vừa đánh vừa chạy. Trương Quân dẫn 3,000 quân đi đoạn hậu cố sức
đánh lấy đường chạy, bị Phạm ngũ Lão chém chết. Thoát Hoan chạy thoát ra được cửa
ải, quân-sĩ mười phần, tổn hại mất 5, 6 phần.
Bọn Thoát Hoan đang đi, bỗng lại có tin báo rằng tự cửa ải
Nữ-nhi đến mãi núi Kì-cấp hơn 100 dặm, chổ nào cũng có đồn ải. Nghe tin ấy,
quân-sĩ đều xôn-xao sợ-hãi, và mé sau lại nghe tiếng ầm-ầm quan quân đuổi theo
và sắp kéo đến. Thoát Hoan vội-vàng sai A bát Xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước
mở đường, Áo lỗ Xích đi đoạn hậu.
A bát Xích, Trương Ngọc gặp phải quan quân chặn đường phục
ở hai bên sườn núi bắn tên độc xuống như mưa. Hai tướng đều tử trận, và quân-sĩ
chết thây nằm ngổn-ngang từng đống. Còn Trình bằng Phi hết sức giữ-gìn Thoát
Hoan chạy ra Đan-kỹ, qua Lộc-châu rồi đi lẻn con đường tắt về châu Tư-minh.
Áo lỗ Xích đi sau, chạy thoát được, mới nhặt-nhạnh tàn
quân theo cả Thoát Hoan về Yên-kinh.
Hưng-đạo-vương chuyến này thực là trừ hết quân Mông-cổ mới
hội cả tướng, dẫn quân rước xa-giá Thượng-hoàng và Nhân-tông về kinh-sư. Về đến
Thăng-long vua sai mở tiệc khao thưởng tướng-sĩ, cho dân- sự mở hội vui-vẻ ba
ngày, gọi là Thái-bình diên-yến.
Sứ An Nam Sang Tàu Xin Hòa
Quân nhà Nguyên sang đánh An-nam tuy thua hai ba phen thật,
nhưng thế nhà Nguyên vẫn mạnh lắm, mà nước Nam ta sánh với nước Tàu lại là một nước
nhỏ-mọn, cô-lập một mình, không nương tựa vào đâu được; nếu cứ tranh chiến mãi
thì sự thắng-bại chưa biết ra thế nào, mà muôn dân lại phải lầm-than, khổ-sở.
Vì những lẽ ấy, cho nên đến tháng mười năm mậu-tí (1288), vua Nhân-tông sai
quan là Đỗ thiên Thứ sang sứ nhà Nguyên, xin theo lệ cống hiến như xưa.
Nguyên-chủ thấy quân mình thua mấy lần rồi, trong bụng
cũng nản, cho nên cũng thuận cho thông hòa.
Tháng hai năm kỷ-sửu (1289) Nhân-tông sai quan đưa bọn tướng
Nguyên bị bắt là Tích Lệ, Cơ Ngọc về Tàu. Còn Phàn Tiếp vì lo mà thành bệnh chết,
vua sai hỏa táng, rồi cấp người ngựa cho vợ con đem hài-cốt về nước. Các đầu mục
cũng tha cho về cả. Duy có Ô mã Nhi giết hại nhiều người, vua căm-tức vô cùng,
không muốn tha về, nhưng lại ngại đường hòa-hiếu, bèn dùng mưu của Hưng-đạo-vương
sai người đưa đi đến giữa bể, đánh đắm thuyền, cho chết đuối, mà Nguyên-triều
cũng không trách vào đâu được. Về sau
vua Dực-tông bản triều nhà Nguyễn xem đến chỗ này, có phê bốn chữ: "bất nhân phi nghĩa". Tưởng lời phê ấy cũng là chính đáng.
Định công, phạt tội
Tháng tư năm kỷ-sửu (1289) mới định công, phạt tội. Bao
nhiêu những vương hầu đi đánh giặc Nguyên có công đều được thăng trật cả, còn
các tướng-sĩ khác họ mà ai có công to thì cho quốc-tính.
Vua lại sai văn-thần ghi-chép công-trạng của các tướng hợp
biên làm quyển sách gọi là Trung hưng thực lục và lại sai thợ vẽ tranh các tướng
để treo ở gác công thần.
Định công xong rồi mới xét đến tội những người hàng giặc.
Khi quân Nguyên đang cường thịnh, triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy-má đi lại
với giặc. Sau giặc thua chạy về bắc, triều-đình bắt được tráp biểu hàng của các
quan. Đinh-thần muốn lục ra để trị tội, nhưng Thượng-hoàng nghĩ rằng làm tội những
đồ tiểu-nhân cũng vô ích, bèn sai đem đốt cả tráp đi, cho yên lòng mọi người.
Duy những người nào quả thực là hàng với giặc, thì mới trị tội; hoặc đem cày,
hoặc xử-tử. Vì thế bọn Trần Kiện, Trần văn Lộng tuy đã chết rồi, nhưng con cháu
phải tước họ tôn-thất đổi ra họ Mai. Còn Trần ích Tắc, thì vua nghĩ tình cận-thân
không nở bỏ họ, nhưng phải gọi là ả Trần, nghĩa là bảo nhút-nhát như đàn-bà vậy.
Những quân-dân thì được thứ tội cả, duy có hai làng
Bàng-hà, Ba điểm trước hết theo giặc, cả làng phải đồ làm binh-lính, không khi
nào được làm quan.
Thưởng công, phạt tội xong rồi, Thượng-hoàng về phủ
Thiên-trường, đến tháng 5, năm canh-dần (1290) thì mất. Nhân-tông sai sứ sang cáo tang và xin phong.
Định cuộc hòa-hiếu
Tự lúc Thoát Hoan thua về, vua nhà Nguyên đã thuận cho
hòa-hiếu, nhưng trong bụng vẫn chưa nguôi giận, ý lại muốn cất binh sang đánh
báo thù. Đình-thần can, xin để cho sứ sang dụ vua An-nam sang chầu xem đã, nếu
không sang rồi hãy liệu.
Hai lần, Nhân-tông lấy cớ không đi, sai sứ đưa đồ vật
sang cống Tàu. Nguyên-triều thấy vua An-nam không sang, định khởi binh sang
đánh, bèn bắt giam sứ ở Giang-lăng, rồi sai Lưu quốc Kiệt và các tướng sửa-soạn
binh-lương, chọn ngày phát binh. Lại sai Trần ích Tắc đi theo, về hội ở Tràng
sa. Nhưng lúc đang sửa soạn, thì Nguyên Thế-tổ là Hốt-tất-Liệt mất, Nguyên
Thánh-tông lên ngôi, mới bãi việc binh và cho sứ An-nam về nước.
(Một trang lịch-sử
thật oai-hùng của đất nước.
Trong giai-đoạn này, biết bao nhiêu danh nhân: Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng, Phạm Ngũ Lão, và… Trần Thủ Độ (tuy nhân-vật này có làm nhiều điều sai lầm)… đã đứng ra giúp nước. Quân Mông Cổ, sau khi nuốt hầu hết Á châu và Đông Âu, đã phải mắc nghẹn hai lần tại một nước bé xíu xiu như Việt-Nam ta. Thử hỏi chúng ta không hãnh-diện sao được?
Trong giai-đoạn này, biết bao nhiêu danh nhân: Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng, Phạm Ngũ Lão, và… Trần Thủ Độ (tuy nhân-vật này có làm nhiều điều sai lầm)… đã đứng ra giúp nước. Quân Mông Cổ, sau khi nuốt hầu hết Á châu và Đông Âu, đã phải mắc nghẹn hai lần tại một nước bé xíu xiu như Việt-Nam ta. Thử hỏi chúng ta không hãnh-diện sao được?
Những sự-kiện lịch-sử
này mà dựng thành phim thì chắc hẳn là tuyệt-vời.)
Yên Hà, tháng 10, 2016
Tài-liệu nguồn :
- Việt-Nam Sử-Lược (1919) : Lệ Thần Trần Trọng Kim
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1697)
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1697)