Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ.
Thân mời các bạn uống
một liều cho… vui.
1. Cười
Cười là đặc tính
của loài người (Rire est le propre de
l’Homme : François Rabelais).
Đứa trẻ từ bụng mẹ chui ra, việc đầu tiên là khóc, sau đó cứ khi buồn thì khóc, khi vui thì cười. Và chỉ có một loại khóc, một loại cười: thật là hồn nhiên. Sau đó lớn lên, với kinh nghiệm đời, nó sẽ học được thêm rất nhiều loại cười nữa. Xem nào.
Đứa trẻ từ bụng mẹ chui ra, việc đầu tiên là khóc, sau đó cứ khi buồn thì khóc, khi vui thì cười. Và chỉ có một loại khóc, một loại cười: thật là hồn nhiên. Sau đó lớn lên, với kinh nghiệm đời, nó sẽ học được thêm rất nhiều loại cười nữa. Xem nào.
1.1
Cười
vui
Cười là phản ứng của cơ-thể và nhất là khuôn mặt để bộc lộ
niềm vui mừng, hạnh phúc. Cười làm tăng thêm mọi vẻ đẹp và làm cho ta cảm thấy
đời đáng sống. Cứ nhìn và nghe tiếng cười hồn nhiên của đứa trẻ thơ hay của người
đẹp thì hiểu ngay.
Có rất nhiều loại cười vui, tuỳ theo tình huống, tâm tính của người cười.
- Cười mỉm, nhẹ nhàng, tủm tỉm, chúm chím, thường là vũ khí lợi hại của người đàn bà.
Có rất nhiều loại cười vui, tuỳ theo tình huống, tâm tính của người cười.
- Cười mỉm, nhẹ nhàng, tủm tỉm, chúm chím, thường là vũ khí lợi hại của người đàn bà.
Trong truyện Kiều, Nguyễn Du mô tả nụ cười của Thuý Vân như:
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Nụ cười đắt giá nhất trong lịch-sử Trung Hoa đã làm Chu U Vương mất nước là nụ cười của Bao Tự. Để làm vương hậu cười, vua đã cho người xé hàng ngàn tấm lụa để được thấy nàng cười vì tiếng lụa xé, nàng nghe vui tai.
Sau này, một viên quan đã hiến kế rằng: “Tiên vương xưa có xây hơn hai mươi chòi canh (phong hỏa đài) ở Ly Sơn, lại đặt mấy mươi cỗ trống to, phòng lúc có giặc sẽ nổi lửa trên chòi và đánh trống báo hiệu cho các chư hầu đem quân đến cứu. Nay nhà vua muốn cho Hoàng hậu cười thì xin nhà vua hãy cùng Hoàng hậu ngự chơi Ly Sơn, rồi đến đêm nổi lửa đốt lên, bấy giờ chư hầu các nơi sẽ đem quân đổ đến. Hoàng hậu thấy chư hầu bị mắc lừa tất phải bật cười”. Và quả nhiên, nàng đã cười thật tươi, khiến vua lại càng mê say.
Nhưng sau nhiều lần, đến khi bị giặc đến đánh thật, quân chư hầu bị lừa nhiều lần không đến nữa nên vua vừa mất nước, vừa mất mạng. Vua còn chết vì một nụ cười nữa huống chi dân ngu khu đen chúng ta?
Một nụ cười huyền bí nổi tiếng nữa hiện được trưng bày tại viện bảo tàng Louvre ở Paris trên tấm tranh La Joconde (vợ của Francesco Del Giocondo?) do Leonardo Da Vinci vẽ. Người đẹp Mona Lisa trông như mỉm cười nhưng không có vẻ là cười và nghi-vấn này lại càng làm tấm tranh nổi tiếng hơn nữa.
- Cười ra tiếng nhưng khẽ và kín đáo là cười rúc rích, cưới khúc khích, cười hinh hích.
- Cười lớn là cười reo, cười vang.
- Cười thật lớn là cười ầm, cười ha hả, cười hô hố, cười
khanh khách. Có những tràng cười nắc nẻ, dòn tan làm người nghe cũng phải cười
theo.
- Cười quá cỡ thợ mộc, không ngừng được là cười lăn cười bò
(càng), cười lăn lộn, ôm bụng cười, cười ngặt nghẽo, cười ra nước mắt.
Những chữ “buồn cười”, “tức cười” làm tôi thắc mắc: Tại sao
buồn mà lại cười? Tại sao tức mà lại cười? Chữ “mắc cười” (như mắc đẻ, mắc …) nghe cũng… mắc cười lắm.
1.2
Cười
buồn
Xuân Diệu đã có viết:
Cười là tiếng khóc khô
không lệ
Người ta cười trong những
lúc quá chua cay…
Trong thảm cảnh nội-chiến, Abraham Lincoln đã có câu: “ Tôi cười vì tôi không có quyền khóc. Chỉ có
vậy.” (I laugh because I must not cry.
That is all).
Bi quan, yếm thế, Nguyễn Công Trứ viết:
Ngồi buồn mà trách ông
xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn
tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm
người,
Làm cây thông đứng giữa
trời mà reo…
(Cây thông)
Gần chúng ta hơn, Lê Hựu Hà đã viết bài nhạc “Hãy ngước mặt
nhìn đời”:
… Cười lên đi em ơi
Cười để dấu những dòng lệ rơi
Hãy ngước mặt nhìn đời
Nhìn đổi thay ta vang tiếng cười…
Cười để dấu những dòng lệ rơi
Hãy ngước mặt nhìn đời
Nhìn đổi thay ta vang tiếng cười…
Nhà trào phúng Raymond Devos thì nói: Con người quá khổ đau nên đã phải sáng chế cái cười (L’homme souffre si profondément qu’il a du
inventer le rire.)
Riêng tôi đã học được nơi Thiền cái mỉm cười trong lúc ngồi
thiền, nhất là trong những lúc buồn khổ. Cái cười lúc đầu méo xẹo, thật gượng gạo
nhưng rồi từ từ tươi ra và tâm bắt đầu lắng xuống.
1.3
Cười
“xấu”
Đôi khi, chuyện không vui nhưng cũng phải cười:
- cười trừ (để đánh trống lảng),
- cười gượng, cười miễn cưỡng (cho đỡ “quê”),
- cười mếu, cười đau khổ, dở khóc dở cười,
- cười giả lả, cười xoà để làm giảm căng thẳng,
- cười hùn, cười theo mọi người cho “rậm đám”, …
Cũng có những cái cười nhạt nhẽo, vô duyên không làm ai cười
(như trong thành-ngữ “vô duyên chưa nói đã cười”).
Có những lúc, con người chúng ta còn dùng cái cười để biều lộ
những tật xấu:
- cười lén, cười thầm trong bụng (cười chê bai nhưng dấu,
không để lộ ra),
- cười cợt, cười chê, cười chế giễu, thường để “vui” trên
đau khổ người khác (người nghèo, xấu xí, thiếu thông minh…)
- cười nhạt, cười khẩy, cười khinh khỉnh, cười mỉa, cười ngạo
mạn, với một thái độ khinh bỉ,
- cười gằn, với ý nghĩa hăm doạ,
- cười nịnh, cười xã giao (không thật tình) để lấy lòng người,
làm lợi cho mình,
- cười lả lơi, lẳng lơ, thông thường phía người đàn bà,
- cười đểu, cười dê, cười “Sở Khanh”, phía người đàn ông,
- …
Tất cả, bao nhiêu là loại cười khác nhau.
2. Làm cười
Trừ trường-hợp cười một mình, thông thường có một người làm
cho những người khác cười.
2.1 Làm cười để làm
gì?
Người vui tính, dí dỏm thường hay thích cười, thích làm người
khác cười, để chia sẻ niềm vui. Yêu đời và yêu người là vậy.
Nụ cười làm chúng ta dễ thấu cảm nhau hơn. Ai cũng đã có những
giây phút hạnh phúc thần tiên của vợ-chồng, bố mẹ-con cái hay của bạn bè cùng vui cười với nhau.
Tôi không biết ai đã nói: “Nụ cười là khoảng cách ngắn nhất giữa hai tâm hồn” nhưng ai cũng biết một người đàn ông muốn xích lại gần một người đàn bà thì hữu-hiệu nhất là làm nàng cười.
Diễn viên hài Sim bên Pháp tuy không có “ngoại hình” nhưng lại rất đắt đào vì lý do này.
Tôi không biết ai đã nói: “Nụ cười là khoảng cách ngắn nhất giữa hai tâm hồn” nhưng ai cũng biết một người đàn ông muốn xích lại gần một người đàn bà thì hữu-hiệu nhất là làm nàng cười.
Diễn viên hài Sim bên Pháp tuy không có “ngoại hình” nhưng lại rất đắt đào vì lý do này.
Người Trung Hoa có câu: “Ai không biết cười thì nên tránh nghề buôn bán.” Trong bất cứ ngành
nào, người bán trước tiên phải làm cho người mua cảm thấy thoải mái để dễ nghe
những lời “dụ dỗ” ngon ngọt của mình, đó là đương nhiên.
Các ông, các bà MC dĩ nhiên thường phải biết kể truyện tiếu-lâm khi phải “câu giờ” trong những trường-hợp “trắc trở kỹ-thuật”.
Bên Mỹ này, bất cứ ông giám đốc, ông tổng thống hay nhân vật nổi tiếng nào khi xuất hiện trước máy vi-âm đều phải bắt đầu bằng một câu hài-hước làm cười mọi người rồi mới vào đề. Tác dụng cười là vậy.
Các ông, các bà MC dĩ nhiên thường phải biết kể truyện tiếu-lâm khi phải “câu giờ” trong những trường-hợp “trắc trở kỹ-thuật”.
Bên Mỹ này, bất cứ ông giám đốc, ông tổng thống hay nhân vật nổi tiếng nào khi xuất hiện trước máy vi-âm đều phải bắt đầu bằng một câu hài-hước làm cười mọi người rồi mới vào đề. Tác dụng cười là vậy.
Và dĩ nhiên, cười là một nhu-cầu nên mới có những nghề-nghiệp
mà mục đích là làm cười và còn có những trường dạy làm cười nữa. Những
nghề này là diễn viên hài (kịch, phim, gánh xiếc…), người viết kịch hài hay
truyện vui, hoạ sĩ (truyện hài hước bằng
tranh, biếm hoạ,…), ...
Thời Trung-cổ, bên Âu-châu, những ông vua thường có bên mình một gã gọi là “bouffon” hay “fou du roi” (thằng điên của vua). Nhiệm vụ gã là tiêu khiển cho vua và khách và gã là người duy nhất có quyền châm biếm và đôi lúc còn làm cố vấn cho vua.
Thời Trung-cổ, bên Âu-châu, những ông vua thường có bên mình một gã gọi là “bouffon” hay “fou du roi” (thằng điên của vua). Nhiệm vụ gã là tiêu khiển cho vua và khách và gã là người duy nhất có quyền châm biếm và đôi lúc còn làm cố vấn cho vua.
2.2 Làm cười như thế
nào?
Có một triệu cách làm người khác cười, tuỳ theo môi-trường,
tình huống, phong cách của người chọc cười và của người cười…
2.2.1 Kỹ-thuật làm cười
2.2.1.1 Dựa trên điệu-bộ,
cử chỉ
Điển-hình là những diễn-viên hài trong phim câm, lúc điện-ảnh
chưa biết ghép thêm tiếng vào cùng với hình ảnh. Đại tài-tử thuở này đương
nhiên phải là nghệ-sĩ người Anh Charlie Chaplin, tự Charlot. Sau đó còn có cặp
Stan Laurel - Oliver Hardy, anh chàng đeo kính Harold Lloyd lúc nào cũng lạc-quan,
người không bao giờ cười Buster Keaton, năm anh em Marx (không có họ hàng gì với
Karl đâu nhé), tài-tử Pháp Max Linder…
Ngoài ra, vẫn còn những diễn-viên tiếp-tục loại chọc cười bằng
cách nhăn mặt, trợn mắt như Jerry Lewis, Jim Carrey, … (tuy rằng sở-thích tôi
không phải loại này).
2.2.1.2 Dựa trên
ngôn-ngữ
Nơi đây, chúng ta tìm lại tất cả những nghệ-thuật chơi chữ dựa
trên
- ngữ âm / âm điệu (xin mời đọc thêm http://phu-tran.blogspot.com/2013/11/toi-yeu-tieng-nuoc-toi-choi-chu-1.html ),
- ngữ nghĩa / ý (xin mời đọc thêm http://phu-tran.blogspot.com/2013/12/toi-yeu-tieng-nuoc-toi-choi-chu-2.html ),
- ngữ pháp và đối đáp (xin mời đọc thêm http://phu-tran.blogspot.com/2014/01/toi-yeu-tieng-nuoc-toi-choi-chu-3.html ),
- và dĩ nhiên là nói lái, nghệ-thuật có một không hai của Việt-Nam chúng ta (xin mời đọc thêm http://phu-tran.blogspot.com/2014/02/toi-yeu-tieng-nuoc-toi-choi-chu-4-noi.html ),
- ngữ nghĩa / ý (xin mời đọc thêm http://phu-tran.blogspot.com/2013/12/toi-yeu-tieng-nuoc-toi-choi-chu-2.html ),
- ngữ pháp và đối đáp (xin mời đọc thêm http://phu-tran.blogspot.com/2014/01/toi-yeu-tieng-nuoc-toi-choi-chu-3.html ),
- và dĩ nhiên là nói lái, nghệ-thuật có một không hai của Việt-Nam chúng ta (xin mời đọc thêm http://phu-tran.blogspot.com/2014/02/toi-yeu-tieng-nuoc-toi-choi-chu-4-noi.html ),
- …
2.2.2 Thể loại / Hình
thức
Những cách chơi chữ này sẽ được áp-dụng trong những tình huống
khác nhau, với những phong cách khác nhau.
2.2.2.1 Trào-phúng
Trào = chế giễu, Phúng = dùng để cảm hoá, Trào phúng = là nghệ-thuật gây tiếng cười mang ý nghĩa phê-phán, châm biếm tật xấu của xã-hội. Tiếng Mỹ và Pháp gọi là “satire”.
Trào = chế giễu, Phúng = dùng để cảm hoá, Trào phúng = là nghệ-thuật gây tiếng cười mang ý nghĩa phê-phán, châm biếm tật xấu của xã-hội. Tiếng Mỹ và Pháp gọi là “satire”.
Trào phúng thường dựa trên tình huống mâu-thuẫn và thổi phồng
quá mực để làm nổi bật những tật xấu.
Trước Công nguyên, thời La Mã đã có những thi sĩ, triết học
gia châm biếm như Horace, Ovid,…
Việt-Nam ta cũng khá nhiều nhân-vật nổi tiếng với nghệ-thuật này.
Thơ trào-phúng của Trần tế Xương, tự Tú Xương thường tự giễu cợt tình trạng mình, người có tài nhưng thi bao nhiêu lần cũng chỉ đỗ được Tú Tài. Cái cười chua chát làm sao!
Nguyễn Khuyến thì
có nét nhẹ nhàng hơn. Thí dụ như bài “Tiến sĩ giấy”, viết để đả kích những kẻ bất
tài ra làm quan:
Cũng cờ, cũng biển,
cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh thế mới hời
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi.
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh thế mới hời
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh choẹ
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi.
Cuối thế-kỷ 19, có cặp bài trùng Ba Giai-Tú Xuất, cùng là những nhà nho bất đắc chí, thông minh, mưu
mẹo nhưng tài năng bất sở dụng, được
nhiều người biết đến qua những đồn đại về những trò trêu ghẹo, những bài thơ
châm biếm, chế giễu những nhân vật có tai tiếng tại Hà-Nội.
Theo chủ trường "cười cợt để sửa đổi phong hóa” của Tự Lực Văn Đoàn, báo Ngày Nay và Văn Hoá thường đăng những biếm hoạ với cặp Lý Toét (nhân-vật cao gầy, tên do Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu đặt, tranh do Đông Sơn Nhất Linh vẽ) và Xã Xệ (nhân-vật lùn mập, do ai vẽ, Nguyễn Gia Trí hay Bút Sơn thì không rõ lắm?)
Tiểu-thuyết trào
phúng điển-hình là “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng, với đoạn trích “hạnh phúc của
một tang gia”. Mâu thuẫn đã ở ngay trong tựa-đề: nhà có tang thì hạnh phúc ở chỗ
nào? Cụ cố tổ mất nhưng mỗi người trong gia-đình đều có lý do để vui sướng.
Nhà văn Tây Ban Nha Cervantès thì có viết Don Quixote de la
Mancha, một nhân-vật gàn dở, hão huyền.
Bên Pháp thì có những nhà văn châm biếm như François
Rabelais (với những tác-phẩm như Pantagruel hay Gargantua), Pierre Corneille (với
những vở kịch-thơ để châm biếm những trưởng giả làm sang / Le bourgeois
gentilhomme, những người keo kiệt / L’avare,…), nhà ngụ-ngôn Jean de la
Fontaine để răn đời, …
2.2.2.2 Danh ngôn
(quotes / citations)
(quotes / citations)
Danh ngôn là những
câu nói hay, đáng ghi nhớ của những danh nhân. Danh ngôn cũng có nhiều câu khôi
hài như :
- Không phải là tôi sợ chết, chỉ có điều là
tôi không muốn có mặt ở đó khi điều đó sẽ xảy ra (I am not afraid to die. I
just don’t want to be there when it happens. Woody Allen)
- Tư-bản là người bóc lột người, nghiệp-đoàn
là ngược lại (Le capitalisme, c’est l’exploitation
de l’homme par l’homme, le syndicalisme, c’est le contraire. Coluche)
Ngay cả những
lãnh-đạo quốc-gia cũng biết nói đùa như Winston Churchill khi ông nói : Tiết-kiệm là một điều tốt, nhất là khi bố mẹ
mình đã làm chuyện đó cho mình (Saving
is a good thing. Especially when your parents have done it for you).
“Ranh ngôn” là những danh ngôn, tục ngữ,
thành ngữ đã bị đổi lời. Thí dụ như :
- Đời là bể khổ mà chúng sanh thì lại... không biết
bơi,
- Có công mài sắt có ngày mỏi tay
- …
Đó là chưa nói đến những bài hát bị đổi lời như :
Đường vào trường đua
có trăm lần thua, có một
lần huề
thay vì Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn…
(“Buồn trong kỷ niệm” của Trúc Phương)
(“Buồn trong kỷ niệm” của Trúc Phương)
hoặc
Bây giờ mấy tháng rồi hỡi em? Anh đi tìm nhà
thương em nằm
thay vì Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em? Lênh
đênh ngàn mây trôi êm đềm…
(“Bây giờ tháng mấy” của Từ Công Phụng)
… và còn nhiều nữa. Hình như người Việt-Nam mình ranh mãnh và khôn vặt lắm (?)
(“Bây giờ tháng mấy” của Từ Công Phụng)
… và còn nhiều nữa. Hình như người Việt-Nam mình ranh mãnh và khôn vặt lắm (?)
2.2.2.3 Truyện tiếu-lâm
Thể loại này có lẽ
là thông dụng nhất. Đây là một câu truyện thật ngắn mà tác dụng làm cười thường
nằm trong câu cuối gây nên bất ngờ. Cho nên muốn thành công phải biết kể sao để
người nghe hồi hộp theo dõi cho đến đoạn kết. Truyện hay mà không biết kể cũng
thành nhạt nhẽo, truyện không hay mà biết kể cũng làm người khác cười được
(cũng như một bài hát, một bài thơ chỉ hay khi được trình bày hay).
Truyện cười có thể
dựa trên bất cứ đề tài nào nhưng thường gặp là những truyện về vợ-chồng (chồng sợ vợ,
khác biệt giữa đàn ông - đàn bà…), về những bà mẹ chồng/mẹ vợ, về những người
già (lẫn thẫn, yếu đuối…), về những cô nàng tóc vàng (ngây thơ, thiếu thông minh), về người
Do Thái (keo kiệt), … nhưng đề tài mọi người (cả đàn ông lẫn đàn bà) thích nhất
chắc hẳn là những truyện về « chuyện ấy ». Và bí-quyết của đề tài « tục »
này dĩ nhiên là phải dùng chữ sao cho « thanh ».
Truyện tiếu lâm
là một đề-tài rất phong-phú mà bài đã dài, tôi xin « để dành » cho một
dịp khác vậy.
2.2.2.4 Nói đùa
Với tất cả những
phong cách nói trên, « hài nhân » (chữ mới do người viết đặt ra để chỉ
người làm cười) đều phải thiết kế, suy nghĩ và sửa soạn trước khi xuất chiêu. « Học
thuộc lòng » và tập dợt trước vài câu truyện vui là có triển vọng làm mọi
người cười. Nhưng ngồi chơi, tán dóc với nhau mà cứ « xuất khẩu thành tếu »
trong bất cứ trường hợp nào, với bất cứ đề tài nào thì chỉ có một ít người làm
được. Nghệ-thuật này khó ở điểm phải « bộc phát », phải « đốp
chát » (tac au tac / tit-for-tat), không cần suy nghĩ, một cách rất tự
nhiên. Đúng chữ, đúng ý, đúng nơi, đúng lúc là điều-kiện chính.
Muốn « pha
trò » kiểu này, « hài nhân » phải rất nhanh trí (chờ 10 giây sau
mới nghĩ ra thì đã là quá trễ rồi), phải quen thuộc với những kỹ-thuật chơi chữ
(đồng âm, trại âm, đồng nghĩa, trại nghĩa, vần, ... và nói lái), phải có kiến-thức
tổng-quát cao (tục ngữ, thành-ngữ, điển-tích, tin tức thời-sự, tiếng lóng, …) để
có thể đáp ứng bất cứ tình huống nào, và cũng phải có chút tài « ăn nói »,
dí dỏm, duyên dáng.
2.2.3 Một nghệ-thuật đa dạng
Có những người dễ
cười (con trẻ,…) và có những khung cảnh dễ làm cười vì ai cũng thoải mái và vui
vẻ (hội hè, nơi nghỉ mát, …). Trong những trường-hợp này, mọi người ai cũng vui và « hài nhân’ cũng cảm thấy "hứng" hơn.
Nhưng ngược lại, điều gì cũng có giới-hạn, phải hợp tình, hợp cảnh và đừng quá mức.
Cười cũng phải tuỳ nơi, tuỳ lúc. Ở những nơi trang-nghiêm (chùa, nhà thờ, thư-viện…) hay những lúc ai cũng mệt, lo nghĩ thì cũng không nên cười hay làm cười.
Cười cũng phải tuỳ nơi, tuỳ lúc. Ở những nơi trang-nghiêm (chùa, nhà thờ, thư-viện…) hay những lúc ai cũng mệt, lo nghĩ thì cũng không nên cười hay làm cười.
Và dĩ nhiên có những đề-tài nhạy cảm như chính trị hay tôn giáo.
Tháng giêng 2015, tuần báo trào phúng Charlie Hebdo tại Paris, cũng vì đụng chạm đến Hồi giáo nên đã bị những kẻ quá khích tấn công, gây nên 17 nạn nhân. Có những vấn-đề và những nhóm người quá nhạy cảm đến mức độ này.
Tháng giêng 2015, tuần báo trào phúng Charlie Hebdo tại Paris, cũng vì đụng chạm đến Hồi giáo nên đã bị những kẻ quá khích tấn công, gây nên 17 nạn nhân. Có những vấn-đề và những nhóm người quá nhạy cảm đến mức độ này.
Óc hài-hước của mỗi
người tuỳ theo tâm-tính riêng và óc hài-hước một dân-tộc rất tuỳ-thuộc văn-hoá
dân-tộc đó. Riêng tôi sống bên Mỹ hơn 10 năm nay nhưng tôi không thể hiểu nổi
phong-cách khôi hài của Mỹ và ngay cả những trang quảng cáo của họ (điển hình
là quảng cáo cho hãng bảo-hiểm Geico), tôi thấy nhạt nhẽo làm sao. Dĩ nhiên đây
không phải là nói ai có duyên, ai vô duyên, nhưng mỗi người một tính, mỗi dân-tộc
một văn-hoá là vậy.
Có chuyện một anh diễn-viên hài người Pháp dọn sang Mỹ tiếp tục hành nghề, mấy buổi trình-diễn đầu mang về bao nhiêu cà chua, trứng thối. Sau đó anh phải mướn một chuyên-viên Mỹ để phê-chuẩn bài vở của anh trước khi lên sân-khấu mới được chút thành công. Đúng là « nhập gia tuỳ tục » vậy.
Có chuyện một anh diễn-viên hài người Pháp dọn sang Mỹ tiếp tục hành nghề, mấy buổi trình-diễn đầu mang về bao nhiêu cà chua, trứng thối. Sau đó anh phải mướn một chuyên-viên Mỹ để phê-chuẩn bài vở của anh trước khi lên sân-khấu mới được chút thành công. Đúng là « nhập gia tuỳ tục » vậy.
Cười hay làm cười đều
thú vị. Nhưng văn hào Mỹ Max Eastman có nói: Khả năng thưởng-thức một câu truyện vui mới chứng mình rằng bạn có óc
hài-hước, chứ không phải là khả năng kể câu truyện vui (It is the ability to take a joke, not make one, that proves
you have a sense of humor).
Nhớ lại lúc trước, làm huấn-luyện viên trong ngành quản-lý xí-nghiệp, trong buổi họp, tôi thỉnh thoảng “nhả” một câu nói đùa nhưng không cười để
đón xem ai sẽ là người cười.
Và sau này biết được câu nói của Alphonse Allais: Một câu truyện vui cần có 3 người, 1 người kể,
1 người thưởng thức và 1 người không hiểu để 2 người kia càng vui hơn (Il faut être trois pour apprécier une bonne
histoire. Un pour la raconter bien, un pour la goûter, et un
pour ne pas la comprendre... Car le plaisir des deux premiers est doublé par
l'incompréhension du troisième.), tôi mới hiểu rõ cái thú này.
Cười còn có thể ý nghĩa sâu
xa hơn nữa, như Max Eastman (lại ông này) nói: Loại hài-hước tôi thích là loại làm tôi cười 5 giây và sau đó suy nghĩ
10 phút (The kind of humor I like is
the thing that makes me laugh for 5 seconds and think for 10 minutes). Đây
cũng là một đặc-điểm của óc hài-hước Anh Quốc, bề ngoài nhẹ nhàng nhưng chứa
hàm ý nghĩa về cuộc sống.
Đúng là cười là một nghệ-thuật và nghề chơi nào cũng lắm công phu.
3. Sống tốt, yêu
nhiều, cười luôn
(Live well, Love much, Laugh often)
Một ngày không có tiếng cười là một ngày lãng phí (A day without laughter is a day wasted - Charlie Chaplin).
Nụ cười là quà tặng của cuộc sống. Nụ cười là hoa nở trên môi và trên thế giới này, không có gì sưởi ấm cho bằng một nụ cười.
Nụ cười là quà tặng của cuộc sống. Nụ cười là hoa nở trên môi và trên thế giới này, không có gì sưởi ấm cho bằng một nụ cười.
Nụ cười không mất tiền mua nhưng tác dụng của nụ cười là vô
song, cho chính mình và cho người khác.
Anh Phú nghiên cưú đề tài cười này hay qúa. Cười mà cũng có nhiều thể loại khác nhau. Em thấy đa số những buổi họp mặt, nhiều người cười nhất khi có người có duyên kể chuyện tục tĩu.
ReplyDelete