Mỗi nhà văn, nhà thơ có một nét bút riêng cho chính mình nhưng họ đều có gì để
chia-xẻ và chữ nghĩa để viết lên.
Charles
Aznavour đã có nhiều chuyện để kể (ông đã viết hơn một nghìn bài nhạc) và tiếng
Pháp của ông quá đủ để mỗi bài hát là một bài thơ trữ-tình.
Tôi
rất mê nhạc của ông và trong bài viết này, tôi muốn bàn đến khía cạnh đặc-biệt
của người thi-sĩ.
1.
Người nghệ-sĩ tài hoa
Charles
Aznavour, tên thật là Chahnourth Varinag Aznavourian, ra đời ngày 22 tháng
5, năm 1924 tại Paris. Cha ông là một nghệ-sĩ giọng trung nam (baryton) người
Arménie từ nước Georgie và mẹ ông là một diễn-viên kịch người Arménie từ
Thổ-Nhĩ-Kỳ.
Ông
lớn lên trong một môi-trường nhạc kịch, giữa bao nghệ-nhân ra vào tiệm ăn của
bố mẹ ông. Lúc ông lên 9, bố mẹ ông ghi tên ông vào học Trường
Ca-Nhạc-Kịch (Ecole du Spectacle) và ông bước vào nghiệp này với tên sân-khấu
là Aznavour.
Sau một thời-kỳ gian-truân lăn lộn trong nghề, ông đã bước lên tột-đỉnh danh vọng trong ngành ca-nhạc, ở nước Pháp cũng như khắp nơi trên thế-giới.
Trong
suốt 70 năm hành nghề, ông đã được công nhận trong nhiều lĩnh-vực: viết nhạc và
lời (hơn một nghìn bài), ca sĩ (ông hát sáu thứ tiếng và đã bán hơn một trăm
triệu đĩa hát trên toàn cầu), diễn-viên điện-ảnh (ông đã đóng trong hơn sáu
mươi cuốn phim), lại kiêm cả Đại-sứ Arménie bên Thụy-Sĩ.
Tháng
4 năm ngoái, vào tuổi 88, ông còn đi trình diễn tại Maison symphonique de
Montréal và Capitole de Québec.
2.
Cũng chỉ là Tình Yêu
Đã
là thi-sĩ thì ca-ngợi gì khác ngoài Đàn Bà và Tình Yêu?
Qua một ngàn lẻ một nét quyến rũ của em Toi, par tes mille et un attraits
Chẳng bao giờ tôi biết em là ai
Je ne sais jamais qui tu es
Vì em luôn thay hình đổi dạng
Tu changes si souvent de visage et d'aspect
Cho dù em tên gì hay tuổi nào
Toi, quel
que soit ton âge et ton nom
Em là thiên thần hay ác quỷ
Tu es un ange ou le démon
Khi với tôi, em lần lượt mang
Quand, pour moi, tu
prends tour à tour
Tất cả những khuôn mặt của Tình
Yêu... Tous les visages
de l'amour...
(Tất cả những khuôn mặt của Tình
Yêu) (Tous les visages de
l'amour )
Nhưng đâu là khuôn mặt thật của tình yêu? Tình yêu mù quáng, tình hiến dâng, tình cưỡng đoạt, như đóa hoa xuân ngắt bên đường, như quả táo đỏ hái trên cành:
Mặt trời đang rực cháy Le soleil brille à pleins feux
Tôi chỉ thấy mắt em
Mais je ne
vois que tes yeux
Thân thể em ngà ngọc
La blancheur de ton corps nu
Trước tay anh lạc loài
Devant mes mains éperdues
Em ơi, đừng đánh mất
Viens, ne laisse pas
s'enfuir
Những buổi sáng dệt tình
Les matins brodés d'amour
Em ơi, đừng để chết
Viens, ne
laisse pas mourir
Những mùa xuân thú vị
Les printemps, nos plaisirs
Tuy nhiên, tình dễ đến nhưng cũng dễ đi. Tình đến rồi tình lại đi:
Tình yêu như một ngày L'amour, c'est comme un jour
Tình yêu đến rồi đi
Ça s'en va, ça s'en
va l'amour
Như mặt trời rạng rỡ
C'est comme un jour de soleil en ripaille
Như vầng nguyệt hạt gieo
Et de
lune en semaille
Như mưa sa nặng hạt
Et de pluie en bataille
Như ngày, đến rồi đi
Ça s'en va, ça s'en va mon amour...
Em yêu hỡi, em ơi...
(Tình yêu như một ngày)
(L'amour c'est comme
un jour)
Tình yêu nở thắm, tuôn trào hẹn ước và tràn đầy hy vọng như thuở Romeo và Juliette, nhưng con tàu đôi khi không cập bến và những con tim bỗng lạc lối, những giấc mộng vỡ tan, và tình yêu ngã gục:
... Một ngày đẹp trời, chúng ta sẽ đến Vérone
... Nous
irons à Vérone un beau jour tous les deux
Nôn nóng hay trầm lặng như hai trẻ thơ dại
Nôn nóng hay trầm lặng như hai trẻ thơ dại
Impatients, recueillis comme deux fous de gosses
Một chuyến du tình, một tuần trăng
mật
En voyage d´amour, en voyage de noces
En voyage d´amour, en voyage de noces
Đến Vérone và chúng ta sẽ hạnh phúc
Nous irons à Vérone et nous serons heureux
Nhưng tim em đã cảm lạnh trước khi tàu rời bến
Mais ton cœur a pris froid bien avant le voyage
Đã chuyển hướng trước ảo ảnh đồng tiền Il a changé de cap au mirage de l´or
Nous irons à Vérone et nous serons heureux
Nhưng tim em đã cảm lạnh trước khi tàu rời bến
Mais ton cœur a pris froid bien avant le voyage
Đã chuyển hướng trước ảo ảnh đồng tiền Il a changé de cap au mirage de l´or
Và tim anh lạc lối dọn hành trang
Alors mon cœur perdu a
déplié bagages
Những giấc mộng thất vọng chưa rời
bến
Et mes rêves déçus n´ont pas quitté le port
Một ngày đẹp trời, chúng ta sẽ đến
Vérone
Nous irons à Vérone un beau jour tous les deux
Nhưng Vérone xa vời quá, em đánh vỡ giấc mộng tình
Nhưng Vérone xa vời quá, em đánh vỡ giấc mộng tình
Mais Vérone est bien loin, tu as rompu le charme
Và Vérone ngập lụt dưới nước mắt tràn trề
Và Vérone ngập lụt dưới nước mắt tràn trề
Et Vérone se noie sous un torrent de larmes
Khi yêu nhau, tình nhân thường nói xuông.
Khi yêu nhau, tình nhân thường nói xuông.
On dit n´importe quoi quand on est amoureux.
(Chúng ta sẽ đến Vérone)
(Nous irons à Vérone)
Và một khi tình đã nguội lạnh thì có đến Venise, thành-phố của Tình Yêu, những chiếc thuyền "gondole" tình tứ dưới ánh trăng thanh cũng chẳng còn gì thơ mộng. Những im lặng rỗng tuếch, những lời nói không nên lời, những ánh mắt thẫn-thờ, mhững bàn tay lạc lõng... Ôi Venise sao buồn quá khi tình yêu đã chết!
Venise buồn quá Que c´est triste Venise
Khi những hò chèo Lorsque les barcarolles
Chỉ nhấn mạnh thêm Ne viennent souligner
Những im lặng rỗng tuếch Que des silences creux…
... Venise buồn quá … Que c´est triste Venise
Buổi tối ngoài phá
Le soir sur la
lagune
Khi ta tìm một bàn tay Quand on cherche une main
Mà nàng không buồn chìa Que l´on ne vous tend pas…
... Ta chỉ biết mỉa mai … Et que l´on ironise
Dưới ánh trăng thanh Devant le clair de lune
Để cố quên đi Pour tenter d´oublier
Những gì ta không nói Ce qu´on ne se dit pas…
Khi ta tìm một bàn tay Quand on cherche une main
Mà nàng không buồn chìa Que l´on ne vous tend pas…
... Ta chỉ biết mỉa mai … Et que l´on ironise
Dưới ánh trăng thanh Devant le clair de lune
Để cố quên đi Pour tenter d´oublier
Những gì ta không nói Ce qu´on ne se dit pas…
... Venise quá buồn … C´est trop triste Venise
Khi tình yêu đã chết Au temps des amours mortes
Venise quá buồn
C´est trop triste Venise
Khi đôi ta không còn yêu nhau Quand on ne s´aime plus.
Khi đôi ta không còn yêu nhau Quand on ne s´aime plus.
(Venise buồn quá )
(Que c'est triste
Venise)
Cuối đoạn đường, tình yêu đã ra đi, còn lại gì?
... Chỉ còn lại cho anh
Một giọng nói chợt không còn tiếng
vọng ... Reste que ma voix sans écho soudain
Những ngón tay không còn gì níu kéo
Reste que mes doigts qui n´agrippent rien
Da anh đây vẫn tìm bàn tay nhỏ
Reste que ma peau qui
cherche tes mains
Anh rất sợ vẫn còn yêu em mãi
Et
surtout la peur de t´aimer encore
Ngày mai, khi hấp hối
Demain presque mort
Vì đã yêu em trong thương đau De t´avoir aimée, aimée de douleur
Yêu em đến rách bụng, nát tim
À
m´en déchirer le ventre et le cœur
Yêu đến chết, đến đày địa ngục
Jusqu´à en mourir, jusqu´à
m´en damner
Vì đã yêu em, anh còn gì?
Que me reste-t-il, de t´avoir aimée?
Chỉ còn lại
Ne me reste plus
Một mối tình em vừa xé tan
Qu´un amour que tu viens d´écarteler.
(Vì đã yêu em)
(De t'avoir aimée)
Hai quả tim không còn đồng nhịp, đôi đường đã tách rời, tình yêu đã trôi theo giòng nước mắt, nhưng dù sao đi nữa...
... không hy-vọng quay trở lại ... sans espoir de retour
Cách mặt, xa lòng, anh sẽ
quên đi mãi
Loin des yeux, loin du coeur, j'oublierai
pour toujours
Thân em, đôi tay em, giọng nói em,
em yêu
Et ton
corps, et tes bras, et ta voix, mon amour
Nhưng dù sao, dù sao đi nữa
Et
pourtant, pourtant
Anh chỉ yêu mình em
je n'aime que toi
Dù sao đi nữa Et pourtant
Anh cũng phải tìm lại lý trí
Il faudra bien
que je retrouve ma raison
Tâm hồn vô-tư, niềm vui sống
Mon insouciance et mes
élans de joie
Anh cũng phải ra đi vĩnh-viễn để thoát khỏi em
Anh cũng phải ra đi vĩnh-viễn để thoát khỏi em
Que je parte à jamais pour échapper à toi
Nhưng dù sao, dù sao đi nữa
Et
pourtant, et pourtant
Ngày nào, trong những vòng tay khác,
anh sẽ quên cả tên em
Dans d'autres bras, quand j'oublierai
jusqu'à ton nom
Ngày nào, anh sẽ nghĩ trở lại tương-lai Quand je pourrai repenser l'avenir
Em sẽ trở thành một kỷ-niệm xa vời Tu deviendras pour moi, qu'un lointain souvenir
Khi anh không còn đau, không còn sợ, không còn khóc
Ngày nào, anh sẽ nghĩ trở lại tương-lai Quand je pourrai repenser l'avenir
Em sẽ trở thành một kỷ-niệm xa vời Tu deviendras pour moi, qu'un lointain souvenir
Khi anh không còn đau, không còn sợ, không còn khóc
Quand mon mal et ma peur et mes
pleurs vont finir
Nhưng dù sao, dù sao đi nữa
Et
pourtant, pourtant,
anh chỉ yêu mình em
je n'aime
que toi.
(Dù sao đi nữa)
(Et
pourtant)
Cuộc sống vẫn tiếp tục, trong những vòng tay khác, trên những bờ môi khác, bên những người tình khác, nhưng sao ta vẫn cứ mãi trở về cái quá khứ đã không còn, quá khứ giữa hai chúng ta?
Giữa hai chuyến tàu, giữa hai cánh cửa Entre deux trains, entre deux portes,
Giữa hai chuyến bay
Entre deux avions qui m´emportent
từ New
York đến Singapore
Entre New York et Singapour
Tâm tư anh đánh đường vòng Ma pensée fait comme un détour
Đưa anh về những dấu vết Pour me ramener sur les traces
Một quá khứ anh từng yêu D´un passé que j´aimais tant
Một hạnh phúc anh đã tưởng D´un bonheur qui semblait pourtant
Của mỗi lúc, của mỗi ngày De chaque jour, de chaque instant
Và anh cảm thấy bồn-chồn Et je ressens comme une angoisse
Cổ họng anh bỗng se lại Dans ma gorge qui se noue
Vì tất cả đã nghiêng ngả Car tout est sens dessus dessous
Tâm tư anh đánh đường vòng Ma pensée fait comme un détour
Đưa anh về những dấu vết Pour me ramener sur les traces
Một quá khứ anh từng yêu D´un passé que j´aimais tant
Một hạnh phúc anh đã tưởng D´un bonheur qui semblait pourtant
Của mỗi lúc, của mỗi ngày De chaque jour, de chaque instant
Và anh cảm thấy bồn-chồn Et je ressens comme une angoisse
Cổ họng anh bỗng se lại Dans ma gorge qui se noue
Vì tất cả đã nghiêng ngả Car tout est sens dessus dessous
Giữa hai chúng ta
Entre nous
Giữa hai cuộc chăn gối, hai giấc
mộng Entre deux draps, entre deux rêves,
Giữa hai làn khói trắng (*) Entre deux fumées qui s´élèvent
Giữa ban đêm và rạng sáng Entre la nuit, le petit jour,
Tâm tư anh bay về tình yêu Ma pensée vole vers l´amour
Và nhắm mắt lại, anh tưởng tượng Et fermant les yeux, j´imagine
Quá khứ vẫn còn sống Que le passé vit encore
Anh ráp lại bối cảnh Je reconstitue le décor
Vồ lấy môi em, vồ lấy em Et prends ta bouche et prends ton corps
Và trên sân-khấu hèn mọn và tàn tạ Et sur l´humble théâtre en ruine
Của đời anh, tình yêu diễn lại De mon coeur l´amour rejoue
Tất cả những gì hơi điên rồ Tout ce qu´il y eut d´un peu fou
Giữa hai làn khói trắng (*) Entre deux fumées qui s´élèvent
Giữa ban đêm và rạng sáng Entre la nuit, le petit jour,
Tâm tư anh bay về tình yêu Ma pensée vole vers l´amour
Và nhắm mắt lại, anh tưởng tượng Et fermant les yeux, j´imagine
Quá khứ vẫn còn sống Que le passé vit encore
Anh ráp lại bối cảnh Je reconstitue le décor
Vồ lấy môi em, vồ lấy em Et prends ta bouche et prends ton corps
Và trên sân-khấu hèn mọn và tàn tạ Et sur l´humble théâtre en ruine
Của đời anh, tình yêu diễn lại De mon coeur l´amour rejoue
Tất cả những gì hơi điên rồ Tout ce qu´il y eut d´un peu fou
Giữa hai
chúng ta
Entre nous.
(Giữa hai chúng ta)
(Entre nous)
(*) : Sau cuộc ân
ái, người ta thường rít điếu thuốc lá.
Anh chỉ yêu mình em... Vì lời hẹn ước ngày nào đã ràng buộc anh trọn một đời:
... Trên đời anh, anh đã thề rằng tim anh
... Sur ma vie j´ai juré que mon cœur
Sẽ không bao giờ đập cho quả tim nào
khác
Ne battrait jamais pour aucun autre cœur
Nhưng đã hết rồi
Et tout est perdu
Vì nó không còn đập
Car il ne bat plus
Nó chỉ có khóc mối tình sầu
Mais il pleure mon amour déçu
... Trên đời anh, anh đã có ngày thề Sur ma vie je t´ai juré un jour
Sẽ yêu em đến ngày cuối cùng
De t´aimer jusqu´au dernier jour de mes jours
Và ngay đến bây giờ Et même à présent
Anh sẽ giữ trọn lời thề Je tiendrai serment
Mặc dù em đã làm anh đau khổ Malgré tout le mal que tu m´as fait
Trên đời anh Sur ma vie
Em yêu ơi, Chérie,
Và ngay đến bây giờ Et même à présent
Anh sẽ giữ trọn lời thề Je tiendrai serment
Mặc dù em đã làm anh đau khổ Malgré tout le mal que tu m´as fait
Trên đời anh Sur ma vie
Em yêu ơi, Chérie,
Anh
sẽ chờ đợi em.
Je t´attendrai.
(Trên
đời anh)
(Sur ma vie)
Dưới ngòi bút của Charles Aznavour, tình yêu không suy nghĩ, không mặc cảm, không ngăn cấm. Đối với ông, tình yêu là tuyệt-đối, tình yêu là sự sống.
3. Giòng thời-gian
Tình yêu đến, tình yêu đi và
Venise thật buồn thảm khi tình yêu đã chết.
Thời-gian kết-hợp rồi thời gian
lại chia-cách, thời-gian tạo rồi diệt, nhưng đôi khi thời-gian lại
tái-hợp, thời-gian lại tái tạo. Mọi chuyện không phải bao giờ cũng trôi
theo thời-gian khi trong thâm-tâm, chúng ta không hề quên.
... Ai biết được sẽ có một ngày, không hẹn mà đến
... Qui m'aurait dit qu'un jour sans l'avoir provoqué
Định-mệnh chợt nối mặt đôi ta Le destin tout à coup nous mettrait face à face
Định-mệnh chợt nối mặt đôi ta Le destin tout à coup nous mettrait face à face
Anh
cứ ngỡ chuyện gì cũng tàn theo năm tháng
Je croyais que tout meurt avec le temps qui passe
Nhưng
không, anh không hề quên
Non je n'ai rien oublié
Anh không biết phải nói gì hay mở lời như thế nào
Je ne sais trop que dire, ni par où commencer
Kỷ-niệm
dâng trào, ngập tràn tâm-trí anh
Les souvenirs foisonnent, envahissent ma tête
Và dĩ-vãng lại trổi dậy từ đáy mồ chiến bại
Và dĩ-vãng lại trổi dậy từ đáy mồ chiến bại
Et le passé revient du
fond de sa défaite
Không, anh không hề quên, không hề quên Non je n'ai rien oublié, rien oublié...
Không, anh không hề quên, không hề quên Non je n'ai rien oublié, rien oublié...
... Thuở ấy, mùa nào cũng là mùa tình yêu
... Chaque saison était notre saison
d'aimer
Chúng
ta chẳng sợ mùa đông, cũng chẳng ngại mùa thu
Et nous ne redoutions ni l'hiver ni l'automne
Vì
trong tuổi đôi mươi, lúc nào cũng là mùa xuân
C'est toujours le printemps quand nos vingt
ans résonnent
Không,
anh không hề quên, không hề quên Non je n'ai rien oublié,
rien oublié...
Anh
không dám ép, nhưng nếu em cho phép, anh cũng muốn,
Je voudrais, si tu veux, sans vouloir te
forcer
Gặp lại em... nếu được, nếu có thể Te revoir à nouveau, enfin... si c'est possible
Gặp lại em... nếu được, nếu có thể Te revoir à nouveau, enfin... si c'est possible
Nếu
em muốn, nếu em rảnh
Si tu en as envie, si tu es disponible
Nếu
em không hề quên
Si tu n'as
rien oublié
Cũng như anh không hề quên Comme moi qui n'ai rien oublié.
Cũng như anh không hề quên Comme moi qui n'ai rien oublié.
(Anh
không hề quên)
(Non je n'ai rien oublié, 1971)
Người nghệ-sĩ sống với con tim, với nhiệt huyết mình, đôi khi sống cuồng, sống vội, lao mình vào cuộc sống như con thiêu thân. Chợt nhìn lại thì tuổi trẻ tôi đâu?
Mới ngày nào Hier encore
Tuổi đôi
mươi
J´avais vingt ans
Tôi
vuốt ve thời-gian
Je
caressais le temps
Và
vui đời
Et
jouais de la vie
Như đùa
với tình yêu
Comme on joue de l´amour
Và
tôi sống ban đêm
Et je vivais la nuit
Bất
chấp chuỗi ngày
Sans compter
sur mes jours
Đang chạy trốn trong thời gian Qui fuyaient dans le temps...
Đang chạy trốn trong thời gian Qui fuyaient dans le temps...
... Mới hôm qua ... Hier encore
Tuổi đôi
mươi
J´avais
vingt ans
Tôi lãng phí thời gian Je gaspillais le temps
Mà tôi tưởng ngưng được En croyant l´arrêter
Và để giữ nó lại Et pour le retenir
Hay để đi trước nó Même le devancer
Tôi cứ cắm đầu chạy Je n´ai fait que courir
Đến hụt hơi... Et me suis essoufflé...
Tôi lãng phí thời gian Je gaspillais le temps
Mà tôi tưởng ngưng được En croyant l´arrêter
Và để giữ nó lại Et pour le retenir
Hay để đi trước nó Même le devancer
Tôi cứ cắm đầu chạy Je n´ai fait que courir
Đến hụt hơi... Et me suis essoufflé...
... Từ điều tốt nhất đến xấu nhất
... Du meilleur
et du pire
Tôi đã
vất bỏ điều tốt nhất
En jetant le meilleur
Để nụ
cười chết lịm
J´ai figé
mes sourires
Và
tiếng khóc lặng câm
Et j´ai glacé mes pleurs
Tuổi đôi
mươi của tôi
Où sont-ils à
présent
Nay
còn đâu?
A présent mes vingt ans?
(Mới hôm qua)
(Hier encore,
1964 ; Yesterday, when I was young)
Thời-gian cứ thế trôi qua và một ngày nào đó, đến một tuổi nào đó, ta chợt đặt lại vấn-đề, chợt tự hỏi bao nhiêu câu hỏi về ý-nghiã của cuộc sống, về lối sống của chính mình. Và đôi khi thực hiện rằng trong suốt thời-gian lao mình vào cuộc sống, ta đã không thấy thời-gian qua:
Càng đi sâu vào đời Plus je m´enfonce dans ma vie
Tôi
càng nhận thấy
Plus
je ne peux que constater
Trong
gió thoảng những điên rồ tuổi trẻ
Qu´au vent
léger de mes folies
Tôi đã
không thấy thời-gian qua
Je n´ai pas vu le temps passer
Trong chăn nệm của tuổi trẻ Entre les draps de la jeunesse
Trong chăn nệm của tuổi trẻ Entre les draps de la jeunesse
Khi tôi
ngủ thật say
Quand je dormais à poings
fermés
Trên đồng
hồ của khuyết điểm mình
A
l´horloge de mes faiblesses
Tôi đã
không thấy thời-gian qua
Je n´ai pas vu le temps passer
Tôi đã
không thấy thời-gian chạy
Je n´ai pas vu le temps courir
Tôi đã
không nghe điểm
Je n´ai pas entendu sonner
Những
giờ phút của tương lai
Les heures de mon devenir
Khi tôi
cắm đầu chạy
Quand je fonçais tête baissée
Về
một tương lai
Vers ce qu´était un avenir
Đã là
một quá khứ...
Et
qui est déjà du passé...
...Rồi bất chợt tuổi ngũ tuấn ... Et puis soudain la cinquantaine
Một
nửa thế-kỷ đã tiêu trọn
Le demi-siècle consommé
Trên
bàn của những ngông cuồng tuổi trẻ A la table de mes fredaines
Khi định-mệnh đã
an bài
Au moment où les jeux sont
faits
Khi quân
chủ bài đã đánh hết
Que tous mes atouts sont jetés
Tôi
chỉ có thể nói: "Tiếc quá
Je ne peux dire qu´à regret
Tôi đã
không thấy thời-gian qua."
Je n´ai pas vu le temps passer.
(Tôi đã
không thấy thời-gian qua)
(Je n´ai pas vu le temps passer, 1978)
Ôi, thời-gian...
4. Thằng nhóc Paris
Chắc hẳn là Charles Aznavour đã
có duyên, có nợ với nước Pháp nói chung và Paris nói riêng vì ông đã ra đời tại
Paris, nơi cha mẹ ông chỉ tạm chân trong lúc chờ làm đơn xin nhập-cư vào Mỹ.
Thế là gia-đình ông ở lại Paris và ông đương nhiên trở thành
"gavroche" (tên nhân-vật một thằng nhóc Paris trong truyện
"Les misérables" - "Những kẻ khốn-nạn" của Victor
Hugo).
Chắc hẳn là thành phố Paris, với
những khu Bastille, Menilmontant, Belleville, Montmartre (nơi đóng đô của những
họa-sĩ)... đã để lại nhiều kỷ-niệm vui buồn trong cuộc đời người nghệ-sĩ.
Những cô nhóc trong xóm tôi ơi, dĩ vãng tôi chợt bừng giấc khi tôi nghĩ đến
Mômes de mon quartier, tout mon passé s´éveille quand je
pense
Những
chuỗi ngày điên rồ khi những mối tình lấp đầy cuộc sống
Aux folies des jours où nos amours comblaient mon existence
Aux folies des jours où nos amours comblaient mon existence
Năm
tháng có trôi qua nhưng tôi vẫn giữ mãi trong tim
Malgré les années, j´ai préservé dans mon cœur, quoi qu´il fasse
Malgré les années, j´ai préservé dans mon cœur, quoi qu´il fasse
Như
một góc thầm kín
Comme un coin secret où nul jamais n´a pris votre place
Những cô nhóc của tuổi đôi mươi, Ménilmontant thật xa nhưng thật gần
Mômes de mes vingt ans, Ménilmontant, c´est loin mais c´est si proche
Comme un coin secret où nul jamais n´a pris votre place
Những cô nhóc của tuổi đôi mươi, Ménilmontant thật xa nhưng thật gần
Mômes de mes vingt ans, Ménilmontant, c´est loin mais c´est si proche
Những
giây phút êm ái đó để lại trên môi thằng nhóc này
Ces instants si doux qui laissent un goût aux lèvres d´un gavroche
Ces instants si doux qui laissent un goût aux lèvres d´un gavroche
Như
một hương-vị mằn mặn làm tôi mơ và tôi cảm thấy gần gũi
Comme un goût salé qui fait rêver et de vous me rapproche
Comme un goût salé qui fait rêver et de vous me rapproche
Những
cô nhóc xinh đẹp trong xóm tôi
Jolies mômes de mon quartier...
... Những cô nhóc yêu quí của tuổi thơ, của thời phóng khoáng nhẹ nhàng
... Mômes de mes amours, de ces beaux jours, de ma tendre bohème
Các
cô đã gieo đời và nhờ vậy khu xóm vẫn không thay đổi
Vous avez semé et le quartier, grâce à vous, est le même
Vous avez semé et le quartier, grâce à vous, est le même
Tim
tôi cảm nhận tất cả và tôi biết tôi nông nhiệt yêu các cô
Tout parle à mon
cœur et, plein d´ardeur, je sais que je vous aime
Những
cô nhóc xinh đẹp trong xóm tôi Jolies
mômes de mon quartier
(Những
cô nhóc xinh đẹp trong xóm tôi) (Jolies mômes
de mon quartier)
Tôi đã sống ở Paris 25 năm, tôi đã từng yêu Paris và tôi vẫn yêu Paris, một cái "yêu" mà tôi (cũng như Aznavour) không thể cắt nghĩa, một cái "yêu" mà chỉ những người đã từng yêu Paris mới hiểu được. Cho nên tôi có thể hiểu Charles Aznavour có thể yêu Paris như thế nào, nhất là khi ông ta đã sinh ra và lớn lên tại Paris, cũng như ông đã từng trải bao nhiêu khó khăn ở nơi đó trước khi bước lên đài danh vọng.
Tôi yêu Paris vào tháng năm J´aime Paris au mois de mai
Với
những người bán sách cũ
Avec ses bouquinistes
Và những họa-sĩ tranh màu nước Et ses aquarellistes
Mà mùa xuân mỗi năm Que le printemps a ramenés
Lại mang về dọc những kè Comme chaque année le long des quais
Và những họa-sĩ tranh màu nước Et ses aquarellistes
Mà mùa xuân mỗi năm Que le printemps a ramenés
Lại mang về dọc những kè Comme chaque année le long des quais
Tôi yêu Paris vào tháng năm J´aime Paris au mois de mai
Yêu sông Seine chảy ngang La Seine qui l´arrose
Yêu ngàn điều nho nhỏ Et mille petites choses
Mà tôi không thể cắt nghĩa Que je ne pourrais expliquer
Tôi yêu khi ban đêm nghiêm trang J´aime quand la nuit sévère
Gieo hòa-bình trên trái đất Etend la paix sur terre
Và khi thành phố bừng sáng Et que la ville soudain s´éclaire
Hàng triệu ngọn ánh sáng De millions de lumières
Tôi yêu đi dạo phố Il me plaît à me promener
Ngắm nhìn những cửa hàng Contemplant les vitrines
Trong màn đêm quyến rũ La nuit qui me fascine
Tôi yêu, tôi yêu Paris vào tháng năm J´aime, j´aime Paris au mois de mai
Tôi
yêu Paris vào tháng năm
(J´aime Paris au mois de mai, 1956)
Paris bao giờ cũng vẫn là Paris. Tôi yêu Paris, và không chỉ vào tháng năm.
5. Aznavourian, người Arménie
Xuất
thân từ một gia-đình người Arménie (cha từ Georgie và mẹ từ Thổ-Nhĩ-Kỳ) nhưng
lại sinh trưởng bên Pháp, Charles Aznavour sống với cả hai nền văn hóa đó.
Chỉ
cần nghe hai nhạc-sĩ Tzigane gảy tây-ban-cầm, cảm xúc đã dâng trào, kỷ niệm
chôn kín trong cội-nguồn chợt nổi dậy.
Hai người nhạc-sĩ Tzigane gảy đàn liên tay
Khơi động lại ký-ức tôi từ miền xa xôi
Những ngón tay họ vô tình gợi về
Một niềm hoang mang vô vọng, một tuổi trẻ ngông cuồng
Cứ gảy nữa, gảy tiếp, gảy mãi nữa đi (*)
Hai cây đàn Tây-ban-cầm làm tâm hồn tôi xao-xuyến
Cho tôi thấy đời chỉ là hư vô
Chúng ta sống những gì, để làm gì? Lẽ sống là gì?
Hôm nay sống, ngày mai chết
Ngày kia lại không còn gì nữa...
(Hai cây đàn,
1960)
(*)
từ tiếng Nga, ngoại ngữ thứ nhất bên Arménie.
Deux tziganes sans répit Grattent leur guitare
Ranimant du fond des nuits Toute
ma mémoire
Sans savoir que roule en moi Un flot de
détresse
Font renaître sous leurs doigts Ma folle
jeunesse
Ekh raz yechtcho raz yechtcho mnogo mnogo raz (*)
Deux guitares en ma pensée Jettent
un trouble immense
M´expliquant la vanité De notre existence
Que vivons-nous, pourquoi vivons-nous
Quelle est la raison d´être
Tu es vivant aujourd´hui, tu seras mort demain
Et encore plus après-demain...
(Deux guitares, 1960)
Vụ diệt chủng Armenie là vụ trục xuất và thảm
sát bằng vũ lực hơn 1,2 triệu người Arménie trong thời kỳ chính-phủ của
Liên hiệp Thanh-Niên Cách-Mạng Thổ-Nhĩ-Kỳ từ năm 1915 đến 1917 ở Đế
Quốc Ottoman.
Nó được mọi người công nhận rộng rãi là một
trong những vụ diệt chủng có hệ thống và hiện đại đầu tiên. Đến nay,
22 quốc gia đã chính thức công-nhận đây là một vụ diệt chủng, cho dù chính
phủ Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ vẫn không công nhận sự kiện này là diệt chủng. (Wikipédia)
(Viết
đến đây, tôi chợt nhớ lại rằng tổ-tiên của chúng ta đã phải mang tội tiêu diệt
dân-tộc Chàm để dựng nước, và giọng ca Chế Linh thường hay nhắc nhở tôi điều
này. Hay là ngày hôm nay, chúng ta phải chịu quả-báo chăng?)
Charles
Aznavour đã tố-cáo diệt-chủng này trong một bài hát "Họ đã nằm
xuống".
Họ đã nằm
xuống, mặt trời ngập tràn mắt
Như
con chim gãy cánh dưới viên đạn
Chết
nơi nao, không vết tích
Họ đã nằm
xuống, mà vẫn còn mơ tưởng
Con
em họ vẫn có thể sống tuổi trẻ chúng
Và có
thể, một ngày nào, đến những phần đất đầy hứa hẹn
Đến
những quốc-gia cởi mở, những người dang tay rộng
Tôi
thuộc dân-tộc ngủ không linh-cửu đó
Một
dân-tộc thà chết chứ không từ bỏ niềm tin
Không
cúi đầu trước sỉ-nhục
Vẫn sống sót, không than van
Họ đã nằm xuống để bước
vào màn đêm vĩnh cửu
Dũng cảm đến tột cùng
Thần chết đã đem họ đi mà không
cần hỏi tuổi
Chỉ
vì họ mang tội là con cháu Arménie...
(Họ đã nằm xuống)
... Ils sont tombés les yeux pleins de soleil
Comme un oiseau qu´en vol une balle fracasse
Pour mourir n´importe où et sans laisser de traces
Ignorés, oubliés dans leur dernier sommeil
Ils sont tombés en croyant ingénus
Que leurs enfants pourraient continuer leur enfance
Qu´un jour ils fouleraient des terres d´espérance
Dans des pays ouverts d´hommes aux mains tendues
Moi je suis de ce peuple qui dort sans sépulture
Qu´a choisi de mourir sans abdiquer sa foi
Qui n´a jamais baissé la tête sous l´injure
Qui survit malgré tout et qui ne se plaint pas
Ils sont tombés pour entrer dans la nuit
Éternelle des temps au bout de leur courage
La mort les a frappés sans demander leur âge
Puisqu´ils étaient fautifs d´être enfants d´Arménie...
(Ils sont tombés)
Sau thảm nạn động đất bên Arménie năm 1988, ông đã can-thiệp vào để giúp đồng bào mình với tổ-chức "Aznavour giúp Arménie". Năm sau, ông quy tụ hơn 80 nghệ-sĩ trong tập-thể "Giúp Arménie" để in ra một đĩa nhạc.
Tổ
chức UNESCO ban thưởng công việc ông và phong ông là "đại-sứ thường trực
Arménie". Ông còn là Đại-sứ Arménie bên Thụy-Sĩ.
Nhưng
mang trong người hai tâm hồn, hai nền văn hóa không phải là chuyện dễ.
Bàn
về vấn-đề nhập-cư và hội-nhập, ông đã tuyên-bố:
" Tôi đã trở thành người Pháp, bắt đầu từ trong tâm não, trong cách sống, trong tiếng nói... Tôi đã phải từ bỏ một phần lớn những đặc-tính Arménie để trở thành người Pháp... Phải làm như vậy. Nếu không thì nên ra đi. "
" Tôi đã trở thành người Pháp, bắt đầu từ trong tâm não, trong cách sống, trong tiếng nói... Tôi đã phải từ bỏ một phần lớn những đặc-tính Arménie để trở thành người Pháp... Phải làm như vậy. Nếu không thì nên ra đi. "
"... Vâng, tôi là người Arménie,
nhưng tôi là Pháp nhiều hơn là Arménie: tôi không biết đọc, biết viết
tiếng Arménie, tôi không biết quốc-ca Arménie, không biết tụng kinh..."
Riêng tôi vẫn quan-niệm đa văn-hóa là một sức mạnh, là một sự phong-phú, là một điều quí giá, và tôi ước mong con cháu chúng ta sẽ thừa hưởng những điều tốt đẹp đó.
6. Viết tiếng Pháp
Charles Aznavour hiện là ca-sĩ người Pháp
lừng danh nhất thế-giới và những bài hát của ông đã trở thành di-sản của nền
ca-nhạc Pháp.
Do đó, ngoài huy-chương Légion d'Honneur của
Pháp ra, ông đã được nhận huy-chương Officier de l'Ordre du Canada từ tay bà
Tổng-Thống-Đốc Gia-Nã-Đại vì công-trình siết chặt mối liên-hệ giữa các
cộng-đồng nói tiếng Pháp bên Gia-Nã-Đại và trên thế-giới. Bà Michaëlle
Jean đã ca-ngợi công-trình ông như sau:
" Người đại minh-tinh này đã làm say mê khán giả khắp thế-giới nhưng trước hết, ông là một đại-sứ thần của Pháp-ngữ. "
" Người đại minh-tinh này đã làm say mê khán giả khắp thế-giới nhưng trước hết, ông là một đại-sứ thần của Pháp-ngữ. "
Yêu Pháp-ngữ
" Pháp-ngữ
là quê-hương tôi."
Đây
là những lời Charles Aznavour nói lên cảm-tình ông dành cho ngôn-ngữ Pháp. Ông
cũng chia xẻ rằng ông rất thích đọc sách và ngày nào ông cũng viết.
"... Tôi
thích làm thơ cho gọn, cho sạch... tôi cảm thấy gần gũi với những người viết
tiếng Pháp một cách đúng-đắn..."
Tôi
hiểu ông muốn nói gì khi tôi đọc lời những bài hát của ông. Văn của ông trải chuốt,
mỗi chữ, mỗi câu được ông chọn kỹ-lưỡng và tạo nên một nhạc tính rất cao. Lối
văn của ông rất tỷ mỷ, kỹ lưỡng, do đó đại số những bài hát của ông đều do
chính ông viết lời vì chỉ như vậy ông mới đủ hài lòng.
"... Tôi chợt nhận thấy những người không chính gốc Pháp lại hay yêu thích tiếng Pháp hơn cả chính những người Pháp, tôi có những người bạn gốc Ý hay gốc Tây-Ban-Nha, họ cũng rất gắn bó với tiếng Pháp..."
Tôi rất đồng-cảm với ông trên vấn-đề này vì
ngoài cá-nhân mình, tôi còn nghĩ đến trường-hợp của nhạc-sĩ Claude Barzotti
(gốc Ý) hay Serge Gainsbourg (gốc Ukraine) hay nhiều nhạc-sĩ, thi-sĩ khác.
Pháp-ngữ có gì đặc-biệt để thu-hút bao nhiêu
nghệ-sĩ như vậy nhỉ?
Chữ và nghĩa
"Chữ-nghĩa
đã trở thành điều quan-trọng nhất trong đời tôi." Charles Aznavour
nói.
"... Mỗi
chữ tối quan-trọng, với bề sâu, với chân-lý của nó... nhưng đôi khi âm-thanh
còn quan-trọng hơn chân-lý của nó..."
Đôi
khi ông có thể chọn một chữ không đúng lắm nhưng âm vang nghe hay hơn và điều
này cũng dễ hiểu vì lời bài hát chẳng qua là để hát chứ đâu phải để đọc?
"... Tôi thích chữ, thích chơi chữ, có duyên hoặc không có duyên cũng kệ, vì muốn chơi chữ hay nói lái cho hay thì cũng phải thử cả chục cái không hay..."
Trong
bài "For me, formidable", ông đã pha tiếng Pháp với tiếng Anh để chơi
chữ:
For me (Anh=
cho tôi), formidable (Pháp= tuyệt vời)
Very (Anh=
rất), véritable (Pháp= chân thật)
Daisy (Anh= hoa
cúc, cũng là tên con gái), désirable (Pháp= khêu gợi)
How can I (Anh=
làm sao tôi...) canaille (Pháp= tinh ranh)
Chữ với nghĩa để làm gì nếu không có gì để nói? Ông Azavour thì có nhiều chuyện để nói, nhiều chuyện để kể lắm. Qua ngàn bài hát của ông, ông dĩ nhiên đã viết về tình yêu dưới mọi dạng, nhưng ông còn nói về những chuyến đi, thời gian, kỷ-niệm,... ông đã dám nói đến những đề-tài nhạy cảm như đồng tình luyến ái, ông đã đề-cập đến những thảm-cảnh xã-hội như chuyện một cô giáo-viên đem lòng yêu một học-sinh (vị thành-niên) của mình đến độ bị ra tòa và tự-xử sau đó...
Viết lời nhạc
Lúc mới vào nghề, ông đã cộng-tác
với Pierre Roche là tay dương cầm viết nhạc, còn ông thì viết lời. Cặp bài
trùng bắt đầu viết bài hát cho một số ca-sĩ có tiếng thuở bấy giờ như Lucienne
Delyle, Les Compagnons de la Chanson, Eddy Constantine hay Mistinguett.
Đối với Charles Aznavour, đặc-tính một bài hát Pháp là do lời bài hát tạo ra, nhiều hơn là do nhịp điệu bài nhạc vì theo ông thì " chúng ta không sáng tạo ra nhịp điệu... sức mạnh của chúng ta là dùng tất cả những nhịp điệu sẵn có để lồng những giai-điệu của mình vào..."
Ông vẫn quan-niệm rằng
" những nốt nhạc không quan-trọng bằng những lời hát..."
Những bài hát của Aznavour đặc-biệt ở chỗ nào? Mỗi khán-giả sẽ có ý-kiến riêng của mình, nhưng theo ông thì:
"Có
hai loại bài hát, loại để "nghe liền" và loại "để đời". Có
loại dành cho não (để suy nghĩ), loại
dành cho tim (để cảm xúc) và loại dành cho đôi chân (để nhảy)... nhạc
để đời là loại nhạc dành cho não và cho tâm..."
Đối với riêng tôi, một bài hát là sự phối-hợp tinh-tế giữa nhạc (giai-điệu, nhịp điệu, hòa-âm...) và câu chuyện kể (ý bài hát, nét thơ, giọng hát trình diễn...). Và Charles Aznavour là một phù-thủy khi ông luyện chế mỗi bài hát, kết hợp nhạc và lời một cách thần tình.
Nhà thơ (?)
" Tôi
vẫn hằng yêu thích thi ca nhưng tôi biết sẽ không bao giờ có thể là một thi-sĩ
vì tôi không có tâm hồn một nhà thơ, cho dù tôi rất yêu thích thơ."
Lời
nói này của Charles Aznavour, chúng ta có thể hiểu thấu vì thi-sĩ thường là một
người mộng mơ, "trên cung trăng" như Jacques Brel hay Jean Ferrat.
Ngược lại, ông là một nghệ-sĩ nhưng ông lại rất thực-tiễn và sáng suốt, nhất là
trong việc quản-lý sự-nghiệp của mình (ông đã giữ được bản-quyền hầu hết những
sáng tác của ông).
Nhưng,
nếu theo từ-điển Larousse định-nghĩa chữ thi-ca là "nghệ-thuật gợi lên
những cảm-giác, cảm-tưởng, cảm-xúc mạnh bằng sự hòa-hợp của âm-thanh, nhịp
điệu, hòa-âm và đặc-biệt bằng những vần thơ " thì lời bài hát của
ông đích thị là những bài thơ tuyệt vời.
Dù
sao đi nữa, thơ hay văn, thi-sĩ hay không thi-sĩ, miễn sao những bài hát của
ông làm ta rung động là quá đủ rồi, phải không các bạn?
Aznavour, ông là ai?
Trong
cuốn sách "50 năm ca-nhạc Pháp", tác-giả Lucien Roux có viết về người
nhạc-sĩ như sau: "Trên sân-khấu hay trong đĩa nhạc, ông ta hầu như
thể-hiện một nỗi khổ miên man trong âm-điệu hay trong cử-chỉ của ông. Từ đó mà
cảm-xúc bộc-phát. Đó không phải là thương hại. Có lẽ là một nguồn cảm-thông
kịch phát. Người ta chỉ muốn giúp ông ta, chống đỡ cho ông... gần như bảo vệ
ông. "
Tôi không quen biết ông một cách trực tiếp để có thể có một quan-điểm về ông.
Đọc
về tiểu-sử của ông, suy nghĩ về những lời nhạc của ông, nghe nhạc của ông, tôi
chỉ có thể nói tôi rất cảm phục ông như một ca-nhạc-sĩ tài ba và tôi rất yêu
thích tiếng Pháp của ông.
Cám
ơn ông Charles Aznavour.
Yên Hà,
tháng năm 2013
Tài-liệu nguồn:
Charles
Aznavour, le monstre sacré (Le Point.fr)
Charles
Aznavour : « Le mot est devenu la chose la plus importante de ma
vie »
Charles
Aznavour : Biographie http://fr.wikipedia.org/wiki/Charles_Aznavour
Le
chanteur qui se voyait "en haut de l'affiche" http://www.linternaute.com/biographie/charles-aznavour/
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.