2. Nhạc thính phòng
3. Nhạc sân khấu
3.1 Hát xẩm
Trong bài hát "Thằng Cuội", có hai câu:
"... Các
con dế mèn suốt trong đêm khuya
Hát xẩm
không tiền nên nghèo xác xơ..."
Xẩm là một
loại hình dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
"Xẩm" cũng còn được dùng để gọi những người hát xẩm - thường là người khiếm thị - đi hát rong kiếm sống và do đó hát xẩm còn có thể coi là một nghề.
"Xẩm" cũng còn được dùng để gọi những người hát xẩm - thường là người khiếm thị - đi hát rong kiếm sống và do đó hát xẩm còn có thể coi là một nghề.
Bộ nhạc cụ đơn giản
nhất để hát xẩm chỉ gồm đàn
nhị (đàn hai giây) và sênh (nhạc cụ gõ để đệm nhịp). Nhóm hát
xẩm có thể dùng thêm đàn bầu, trống mảnh và phách bàn.
Để thay cho đàn nhị truyền thống, có thể dùng đàn gáo, loại đàn được
phát triển từ đàn nhị nhưng to và dài hơn, thích hợp khi đệm cho giọng
trầm.
Sênh dùng đệm nhịp cho hát xẩm có thể là sênh sứa (gồm hai thanh tre hoặc gỗ) hoặc sênh tiền (có gắn thêm những đồng tiền kim loại
để tạo âm thanh xúc xắc).
Ngoài ra, đàn
đáy, trống cơm, sáo và thanh la cũng có thể hiện
diện trong hát xẩm.
Xẩm có hai làn điệu chính là xẩm chợ và xẩm cô đầu.
Hát xẩm
chợ, điệu hát mạnh, những tiếng đệm, tiếng đưa hơi đều hát nổi tiếng bằng
lời hát chính và đệm đàn bầu hay nhị với sênh phách; còn hát xẩm cô đầu thì điệu hát
dịu dàng hơn, những tiếng đệm và tiếng đưa hơi lẫn vào lời chính, cốt giúp cho
có nhiều dư âm và bắt khúc được dễ dàng.
Xẩm tàu điện của người Hà
Thành
Thế kỷ XX, phương tiện đi lại ở Hà Nội chủ yếu là xe tay
kéo và tàu điện. Nơi đây đã sản sinh ra một nhánh trong loại hình nghệ thuật
diễn xướng độc đáo của dân tộc, đó là xẩm tàu điện.
Mặc dù xẩm có nhiều loại nhưng xẩm tàu điện thì chắc chắn
chỉ Hà Nội mới có. Nếu ca trù, hát cô đầu là “đặc trưng” của phố Khâm Thiên,
thì hát xẩm là đặc trưng của chợ Đồng Xuân và phố cổ.
Xẩm tàu điện khác với xẩm chợ, xẩm lễ hội là luôn phải
chuyển tàu, chuyển toa tìm khách mới nên các đoạn hát thường ngắn gọn, luôn
thay đổi nội dung nếu không khách sẽ chán vì phải nghe đi, nghe lại, nhất là
các khách thường ngày đi tàu.
Cho đến tháng 2 năm 2013, tỉnh Ninh Bình với nghệ
nhân Hà Thị Cầu (1928-2013) được coi là người hát xẩm cuối cùng của
thế-kỷ.
Xin mời các bạn nghe:
Xẩm
Thập Ân https://www.youtube.com/watch?v=G-s6uOwJOSg
Nghệ-nhân Hà Thị Cầu https://www.youtube.com/watch?v=Vhcvy3NU5-Y
Nghệ-nhân Hà Thị Cầu https://www.youtube.com/watch?v=Vhcvy3NU5-Y
3.2 Hát chèo
(Chèo, Wikipedia http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A8o)
Chèo là một loại
hình nghệ-thuật sân-khấu dân-gian Việt-Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía
bắc Việt Nam mà trọng tâm là vùng đồng-bằng Bắc-Bộ.
Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân-tộc.
Chèo mang tính quần chúng và được coi là một loại hình sân khấu của hội hè với
đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu
tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung-Quốc có đại diện
tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch
Nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.
Chèo bắt nguồn từ âm-nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế-kỷ 10.
Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện
ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự
phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội
Mông-Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế-kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên
nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ
có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người
lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.
Không giống Tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, Chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ-tích, truyện Nôm.
Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca,
dân vũ và các loại-hình nghệ-thuật dân-gian khác ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ. Nó là hình thức kể chuyện, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao
lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng.
Xin mời các bạn nghe/xem một vài vở chèo tiêu biểu:
Lưu Bình Dương Lễ https://www.youtube.com/watch?v=ighSltPj9yU,
Quan Âm Thị Kính https://www.youtube.com/watch?v=5yl5dlS0-dU...
3.3
Hát tuồng
Tuồng, tức hát
bộ, còn gọi là hát bội hay luông tuồng là
một loại văn nghệ trình diễn cổ truyền ở Việt-Nam.
Ở miền Trung trở ra gọi Tuồng do chữ "Liên Trường" là
kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc,
phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn. Từ "liên
trường" do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng".
"Bộ" đây có nghĩa
là diễn xuất của nghệ sĩ đều phải phân đúng từng bộ diễn. Vì vậy mới gọi
là "hát bộ", "diễn bộ", "ra bộ".
Gọi là "hát bội" bởi trong nghệ thuật hóa trang, đào kép phải đeo, phải giắt (bội) những cờ phướn, lông công, lông trĩ... lên người.
Gọi là "hát bội" bởi trong nghệ thuật hóa trang, đào kép phải đeo, phải giắt (bội) những cờ phướn, lông công, lông trĩ... lên người.
Theo truyền-thuyết, Hát tuồng đã du
nhập từ Trung-Hoa vào nước ta từ đời vua Lê Long Đĩnh và sau đó thời Hưng Đạo
Đại Vương. Tuy nhiên người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật tuồng Việt Nam
là Đào Duy Từ (1572-1634).
Những trường phái lớn trong hát bội là: Tuồng cung-đình
Huế, Tuồng Quảng Nam, Tuồng Bình Định, Tuồng Gia-Định và Tuồng Bắc. (Hát bội
xuất phát từ miền Trung nên xin tạm ghi trong phần này.)
Lối diễn xuất thường được khuếch đại hơn sự thật
ngoài đời để khán giả dễ cảm nhận. Các động tác càng nhỏ càng nhanh, khi lên
sân khấu càng cần tăng cường điệu thì khán giả mới kịp nhận thấy. Kiểu cách đi
đứng còn dùng để biểu lộ cái "tâm" của nhân vật thiện, ác. Thậm chí
lên ngựa, xuống ngựa còn phân biệt Bộ của trung tướng khác bộ dạng nịnh
thần. Mọi động tác đã thành thông lệ hay ước lệ.Theo Việt Nam tân từ điển
: Đây là lối hát theo tích tuồng xưa mà mỗi vai tuồng đều hóa trang theo
một lối đặc biệt riêng của tinh thần vai tuồng đó trong khuôn khổ, mẫu mực của
mỗi vai trung, nịnh, vua, tôi và diễn tả hoàn toàn bằng điệu bộ riêng của mỗi
vai khi lên ngựa, lúc qua hào, lúc làm vua, khi làm giặc...
Điệu hát quan trọng nhất trong hát bội là
"nói lối", tức là nói một lúc rồi hát, thường để mở đầu cho các khúc
hát khác. "Nói lối" có hai giọng chính là "Xuân" và
"Ai".
"Xuân" là giọng hát vui tươi, còn "Ai" là bi thương, ảo não.
"Xuân" là giọng hát vui tươi, còn "Ai" là bi thương, ảo não.
Dàn nhạc dùng trong hát bội gồm có những nhạc
cụ như: trống chiến (loại trống nhỏ), đồng la, kèn, đờn cò và có khi
ống sáo.
Vở tuồng tức bài tuồng là một thể văn riêng
trong văn-học ta. Lối trình bày tuồng dùng nhiều thể văn học như Đường
Thi, phú, song thất lục bát và lục bát ghép với lễ nhạc và một số điệu múa. Lời văn thì nhiều
khi có vần và có đối.
Tuồng tích trong vở diễn của hát bộ thường là
các cổ tích, kịch bản phóng tác từ kinh điển truyện cổ Trung Hoa như Tam Quốc
Chí, Vạn Hoa Lầu, Ngũ Hổ Bình Tây... Tuồng tích đã sẵn trong sách nên
người xem phần lớn đều biết rành kịch tình và đến rạp chỉ xem kịch tính của các
nghệ sĩ và đạo diễn mà thôi.
Xin mời các bạn xem/nghe
"Phàn Lê Huê phá Ngũ long trận"
3.4 Cải lương
Cải lương là một loại hình kịch hát có nguồn gốc từ miền Nam Việt-Nam, hình thành trên cơ sở dân ca
miền đồng bằng sông Cửu Long và nhạc tế lễ.
Giải thích chữ "cải lương" (改良)
theo nghĩa Hán-Việt, giáo sư Trần Văn Khê cho rằng: "Cải lương là sửa đổi
cho trở nên tốt hơn", thể hiện qua sân khấu biểu diễn, đề tài kịch bản,
nghệ thuật biểu diễn, dàn nhạc và bài bản."
Sau khi cải
lương thì nghệ thuật Cải Lương đã khác hẳn với nghệ thuật hát bội cả về nội
dung và hình thức.
Năm 1920, gánh Tân Thinh có 2 câu đối treo trước sân khấu :
Cải cách hát ca theo tiến bộ
Lương truyền tuồng tích sánh văn minh
Khởi đầu, Các tài tử còn ca các bài cũ kiểu "độc thoại " và chưa có ra bộ tịch gì hết. Bắt đầu năm 1916, loại ca đối
thoại xuất hiện, nhiều người hát chung, và gọi đó là "Ca ra bộ"
(vừa ca vừa ra bộ). Bài hát điển hình nhất là bài "Tứ đại oán "
(Bùi Kiện thi rớt ) phát khởi từ Vũng Liêm (Vĩnh Long) tại nhà thầy Phó Mười
Hai.
Về
thời gian ra đời, theo Vương Hồng Sển thì kể từ
ngày 16 tháng 11 năm 1918, khi tuồng "Gia Long tẩu quốc" được công diễn
tại Nhà Hát Tây Sài Gòn, cách hát mới lạ này mới "bành trướng không
thôi, mở đầu cho nghề mới, lấy đờn ca và ca ra bộ ra chỉnh đốn, thêm thắt mãi,
vừa canh tân, vừa cải cách... nên cải lương hình thành lúc nào cũng không ai biết
rõ..."
Tại miền Nam, thập-niên 60 là thập niên hưng thịnh nhất của cải lương miền
Nam, lấn át cả tân nhạc.
Các sân khấu cải lương được đông khán giả đến
xem hàng ngày, nên ngày nào cũng có diễn xuất, nhờ đó, các soạn giả và nghệ sĩ
có cuộc sống khá sung túc, và một số ca sĩ tân nhạc phải tìm cách chuyển nghề
sang hát cải lương để tìm kiếm thành công như Hùng Cường.
Trong những giải thưởng của ngành Cải lương thời
đó, nổi tiếng và uy tín có giải Thanh Tâm, do ông ký giả Thanh Tâm (tên thật là
Trần Tấn Quốc) thành lập, hoạt động từ năm 1958 đến năm 1968, mà người nhận giải
đầu tiên là nữ nghệ sĩ Thanh Nga.
Những soạn giả tuồng nồi tiếng trong thời này có Năm Châu, Hà Triều, Hoa Phượng, Bảy Cao, Thiếu Linh, Thu An, Viễn Châu (sáng tạo hình thức Tân-cổ giao-duyên, tức là
hát cải lương chung với tân nhạc).
Những gánh hát cải lương nổi tiếng thời này có đoàn Thanh Minh, Thống Nhứt, Tiếng
Chuông Vàng,... với những nghệ sĩ như Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Tấn Tài, Dũng Thanh Lâm, Minh Cảnh, Minh Vương, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Lệ Thuỷ, Mỹ Châu, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Kim Huệ, Thanh Thanh Hoa, v.v...
Bố-cục
Khởi sự, các vở cải lương viết về các tích xưa, như Trảm
Trịnh Ân, Vợ Ngũ Vân Thiệu bị tên, Cao Lũng vít thiết xa, Ngưu
Cao tảo mộ, Thoại Khanh Châu Tuấn... hãy còn giữ mang hơi hướm theo kiểu
hát bội, do các soạn giả lớp cải lương đầu tiên vốn là soạn giả của sân khấu
hát bội.
Sau này, các vở về đề tài xã hội mới (gọi là tuồng xã hội), như Tội của ai, Khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường... thì hoàn toàn theo cách bố cục của kịch nói, nghĩa là vở kịch được phân thành hồi, màn, lớp, có mở màn, hạ màn, theo sự tiến triển của hành động kịch.
Sau này, các vở về đề tài xã hội mới (gọi là tuồng xã hội), như Tội của ai, Khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường... thì hoàn toàn theo cách bố cục của kịch nói, nghĩa là vở kịch được phân thành hồi, màn, lớp, có mở màn, hạ màn, theo sự tiến triển của hành động kịch.
Càng về sau thì bố cục của các vở cải lương, kể cả các vở viết về đề tài xưa
cũng theo kiểu bố cục của kịch nói.
Đề tài và cốt truyện
Buổi đầu, kịch bản cải lương lấy cốt truyện của các truyện
thơ Nôm như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, ... hoặc các vở tuồng hát bội, hoặc phỏng
theo truyện phim và kịch bản Pháp, như Giá
trị và danh dự (Le Cid), Tơ vương đến thác (La dame au
camélias)...
Vào những năm 1930, đã xuất hiện những vở mới, viết về đề tài xã hội Việt Nam.
Vào những năm 1930, đã xuất hiện những vở mới, viết về đề tài xã hội Việt Nam.
Sau đó, lại có thêm các kịch bản dựa vào các truyện cổ Ấn-Độ, Ai-Cập, La Mã, Nhật bản, ...
Thế là cải lương có đủ loại tuồng ta, tuồng Tàu,
tuồng Tây..., sau có thêm dạng tuồng kiếm hiệp, tuồng Hồ Quảng v.v...chứng tỏ khả
năng phong phú, biết đáp ứng sở thích của nhiều tầng lớp công chúng.
Ca nhạc
Các loại hình sân khấu như hát bội, chèo, cải lương được gọi
là ca kịch. Là ca kịch chứ không phải
là nhạc kịch,
vì soạn giả không sáng tác nhạc mà chỉ soạn lời ca theo các bản nhạc có sẵn, cốt
sao cho phù hợp với các diễn biến cùng sắc thái tình cảm của câu chuyện.
Dàn nhạc
Dàn nhạc Cải Lương có một vai trò đặc biệt trong tuồng diễn,
đến nỗi, không có dàn nhạc thì không thể thành một tuồng diễn. Dàn nhạc trong Cải
Lương không chỉ có nhiệm vụ nâng đỡ, phụ hoạ cho giọng hát, mà còn tô điểm thêm
cho từng giai điệu để làm nổi bật chiều sâu tâm lý của nhân vật, tạo thêm kịch
tính cho kịch bản, góp phần cho sự thành công của tuồng diễn.
Có một điều đặc biệt cần chú ý là ngay từ buổi đầu, lúc mới
khai sinh, trong nghệ thuật Cải Lương đã có sự tồn tại song song của hai dàn nhạc: dàn
nhạc cổ và dàn nhạc tân.
Dàn nhạc cổ luôn giữ vai trò chủ chốt và là linh hồn của
tuồng Cải Lương. Dàn nhạc cổ cũng mang đậm nét truyền thống và góp phần giữ gìn
bản sắc dân tộc trong nghệ thuật âm nhạc Cải Lương. Dàn nhạc cổ thường sử dụng những nhạc cụ như: đàn tranh, đàn bầu, đàn kìm, đàn cò, đàn tỳ bà, đàn sến, sáo trúc...
Dàn nhạc tân trong tuy chỉ đóng vai phụ, nhưng
cũng rất tích cực, đồng thời cũng rất đa dạng về nhạc cụ.
Diễn xuất
Diễn
viên cải lương diễn xuất như kịch nói, chỉ khác là diễn viên ca chứ không nói.
Cử chỉ điệu bộ phù hợp theo lời ca, chứ không cường điệu như hát bội.
Thân mời các bạn nghe-xem:
Tình anh bán chiếu https://www.youtube.com/watch?v=ntPPYHOYli8
Thân mời các bạn nghe-xem:
Tình anh bán chiếu https://www.youtube.com/watch?v=ntPPYHOYli8
Vọng cổ
Vọng cổ, hay vọng cổ Bạc Liêu, là một điệu
nhạc rất thịnh hành ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, Việt Nam. Nó được bắt nguồn từ
bài "Dạ cổ hoài lang" (nghe tiếng trống đêm, nhớ chồng)
của nghệ sĩ Cao Văn Lầu (tức Sáu Lầu) sáng tác năm 1918. Bản vọng cổ là một
trong những điệu nhạc căn bản của sân khấu cải lương.
Thân mời các bạn nghe-xem:
Dạ cổ hoài lang (Hương Lan) https://www.youtube.com/watch?v=oC_dAbMWBeg
Xuân này con không về https://www.youtube.com/watch?v=-gjA5jYWx-0
Bài "Dạ cổ hoài lang" có 20 câu, hai nhóm đầu mỗi
nhóm 6 câu, hai nhóm sau mỗi nhóm 4 câu. Mỗi câu trong bài có 2 nhịp, gọi là nhịp
đôi.
Câu 2 nhịp, tuy nhiên, không thỏa mãn được nhu cầu của các
nhà soạn nhạc. Bản nhạc (bản vọng cổ luôn gọi là "bản", không gọi là
"bài") được tăng lên 4 nhịp, tức nhịp tư, trong khoảng thời gian
1927-1935. Sau đó tăng lên nhịp tám vào những năm 1936-1945, và cũng khoảng thời gian này
được mang tên bản "Vọng cổ". Từ nhịp tám lên nhịp 16, 32, 64, 128,...
Bản thông dụng nhất hiện nay là bản nhịp 32.
Tại miền Nam trước 1975 có trên 50 gánh hát lưu diễn
quanh năm. Ngày nay số gánh hát vẫn tương đương và tiếp tục phát triển nghệ thuật
cải lương ở Việt Nam, trong khi ở hải ngoại ngành cải lương không còn thu hút
khán giả nữa, và các nghệ sĩ cải lương tỵ nạn đã phải tìm một nghề khác để mưu
sinh.Thân mời các bạn nghe-xem:
Dạ cổ hoài lang (Hương Lan) https://www.youtube.com/watch?v=oC_dAbMWBeg
Xuân này con không về https://www.youtube.com/watch?v=-gjA5jYWx-0
3.5 Tân cổ giao-duyên
Tân cổ giao duyên là hình thức nghệ thuật sáng tạo kết hợp độc
đáo giữa cổ nhạc và tân nhạc phát triển cực thịnh vào những năm 1960, 1970. Ở đây, bài ca 6 câu vọng cổ được cắt bớt đi 2 hoặc 3 câu để xen vào đó một đoạn “Tân nhạc".
Hầu
hết các tài liệu nghiên cứu và cả những ghi nhận của giới chuyên môn, những
nhân chứng sống của âm nhạc và sân khấu cải lương miền Nam đều công nhận soạn
giả - NSND Viễn Châu chính là cha đẻ của “tân cổ giao duyên”. Ông còn được biết
đến trong vai trò nhạc sư, danh cầm đàn tranh với ngón đờn tuyệt hảo và là một
trong năm danh cầm xuất chúng xuất thân từ đờn ca tài tử Nam Bộ với một tên gọi
khác là nhạc sĩ Bảy Bá. Thân mời các bạn nghe:
Lan và Điệp (Ngọc Huyền và Phương Vũ)
https://www.youtube.com/watch?v=WkKgPQUbSdE
Tuyển-tập https://www.youtube.com/watch?v=DPLCJLyCBWU
4. Kết-luận
Làm một vòng các thể-loại nhạc cổ-truyền (cổ-nhạc) của dân-tộc, tôi mới thấy nền âm-nhạc mình phong phú như thế nào và tôi cảm thấy thật hãnh-diện với nền văn-hoá âm-nhạc trên bốn ngàn năm văn hoá của mình.
Chỉ tiếc là "Có mới, nới cũ", chúng ta mỗi ngày, mỗi thế-hệ, chạy theo "đời mới" và bỏ quên đi mất văn-hoá của mình.
Đối với người Việt tha-hương chúng ta, hiểu được nhạc mình, biết qua nhạc người, dung hòa hai nền nhạc Âu và Việt để đừng bị mất gốc, mất rễ và có thể dạy dỗ con cháu thuộc thế hệ sau. Tự hào nhạc Việt, cũng như tự hào tiếng nói Việt, văn hóa Việt là nung nấu chí khí quật cường bất khuất của dân tộc Việt, là nuôi dưỡng tình yêu quê hương, tình thương dân tộc để xứng đáng là con cháu dòng dõi Lạc Hồng. (Trần Quang Hải)
Riêng tôi đã bắt đầu viết loạt bài sưu-tầm "Tiếng nước tôi", ghé qua nhạc cổ-truyền, tìm hiểu về phong tục Tết Tây, Tết ta, ... không ngoài hoài bão này.
Và chia sẻ hoài bão này với các bạn đọc trên những trang này là mong ước sao:
"Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn". (Phạm Quỳnh)
"Văn hoá ta còn, nước ta còn" trong tâm can ta.
Yên Hà, tháng 2, 2015
Tài-liệu
nguồn:
Chèo, Wikipedia
Xẩm, Wikipedia
Xẩm
tàu điện của người Hà Thành
Hát
tuồng
Cải lương (Wikipedia)
Trần Quang Hải : Một Vài Vấn Đề Về Nhạc Cổ Truyền Việt Nam
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.