UA-83376712-1

Labels

Sep 19, 2016

Con Rồng Cháu Tiên (8) : Tự-chủ thời-đại / Nhà Lý

0. Đại-cương

1.Thượng-cổ thời-đại
1.1 Họ Hồng Bàng
1.2 Nhà Thục
1.3 Nhà Triệu

2. Bắc thuộc thời đại
2.1 Bắc thuộc lần thứ 1 - Trưng Vương
2.2 Bắc thuộc lần thứ 2 - Bà Triệu
2.3 Nhà Tiền Lý
2.4 Bắc Thuộc Lần Thứ 3
2.5 Kết Quả Của Thời Bắc Thuộc

3. Tự-chủ thời-đại 
3.1 Nhà Ngô 
3.2 Nhà Đinh
3.3 Nhà Tiền Lê 

3.4 Nhà Lý (1010-1225)
(Kỷ nhà Lý là đời vua lâu đời nhất của Việt-Nam, một thời-kỳ thật huy hoàng nhờ những nhà vua giỏi, yêu dân và nhiều quan văn võ tận tình.)
3.4.1 LÝ THÁI-TỔ (1010-1028)
Niên-hiệu : Thuận-thiên
Thái-Tổ khởi nghiệp
Lý công Uẩn người ở làng Cổ-pháp, nay thuộc về huyện Đông-ngạn, phủ Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh (ở làng Đình-bảng có lăng và đền thờ nhà Lý).

Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm-Thị đi chơi chùa Tiêu-sơn (làng Tiêu-sơn, phủ Từ-sơn), nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi đem cho người sư ở chùa Cổ-Pháp tên là Lý khánh Văn làm con nuôi, mới đặt tên là Lý công Uẩn.
Công Uẩn lớn lên vào Hoa-lư làm quan nhà Tiền-Lê, đến chức Tả-thân-vệ Điện-tiền Chỉ-huy-sứ. Khi Lê Long Đĩnh mất, thì Lý công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán-giận nhà Tiền-Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý công Uẩn lên làm vua.
Lý công Uẩn bèn lên ngôi hoàng-đế, tức là vua Thái-tổ nhà Lý.

Dời đô về Thăng Long Thành
Thái-tổ thấy đất Hoa-lư chật-hẹp không có thể mở-mang ra làm chỗ đô-hội được, bèn định dời đô về La-thành. Khi ra đến La-thành, Thái-tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại-la thành là Thăng-long thành, tức là thành Hà-nội bây giờ.

Lấy kinh Tam Tạng
Nhà Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nhà vua trọng đãi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông. Năm mậu-ngọ (1018) vua sai quan là Nguyễn đạo Thanh và Phạm Hạc sang Tàu lấy kinh Tam-tạng đem về để vào kho Đại-hưng.

Việc Chính Trị
Lúc bấy giờ ở bên nhà Tống có nhiều việc, cho nên cũng không sinh sự lôi thôi gì với nước ta. Bởi vậy khi Thái-tổ lên làm vua, sai sứ sang cầu phong, vua nhà Tống liền phong cho làm Giao-chỉ quận-vương, sau lại gia phong Nam-bình-vương. Nước Chiêm-thành và nước Chân-lạp đều sang triều cống, cho nên việc bang-giao thời bấy giờ đều yên-trị.

Ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn-châu (thuộc Nghệ-an) và ở mạn Thượng-du hay có sự phản-nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh-dẹp mới yên được. Thời bấy giờ các hoàng-tử đều phong tước vương và phải cầm quân đi đánh giặc, bởi vậy ai cũng giỏi nghề dùng binh.

Thái-tổ trị-vì được 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi.


3.4.2 LÝ THÁI TÔNG (1028-1054)
Niên hiệu : Thiên thành (và nhiều niên-hiệu khác)

Lê Phụng Hiểu định loạn
Thái-tổ vừa mất chưa tế-táng xong, thì các hoàng-tử là bọn Võ-đức-vương, Dực-thánh-vương và Đông-chinh-vương đã đem quân đến vây thành để tranh ngôi Thái-tử.
Khi quân của Thái-tử và quân các vương  đối trận, thì quan Võ-vệ tướng-quân là Lê phụng Hiểu rút gươm ra chỉ vào Võ-đức-vương mà bảo rằng : "Các người dòm-ngó ngôi cao, khinh-dể tự-quân, trên quên ơn Tiên-đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này !" Nói xong chạy xông vào chém Võ-đức-vương ở trận tiền. Dực-thánh-vương và Đông- chinh-vương cũng phải chạy trốn.

Thái-tử Phật Mã lên ngôi, tức là vua Thái-tông.
Dực-thánh-vương và Đông-chinh-vương xin về chịu tội. Thái-tông nghĩ tình cốt-nhục bèn tha tội cho, và lại phục chức cũ cho cả hai ngừơi.

Sự đánh dẹp

Thái-tông là người có thiên-tư đĩnh-ngộ, thông lục-nghệ, tinh thao-lược.
Thời bấy giờ, các địa phương quyền hành nhiều quá, cho nên thường hay có sự phản-nghịch. Lại có những nước lân bang như Chiêm- thành và Ai-lao thường hay sang quấy nhiễu, và ở châu Quảng-nguyên (Lạng-sơn) có những người Nùng cứ hay làm loạn. Bởi vậy cho nên sự đánh-dẹp về đời vua Thái-tông rất nhiều, nhưng ngài đã quen việc dùng binh, cho nên ngài thường thân chinh đi đánh đông dẹp bắc.


Việc Chính Trị
Thái-tông tuy phải đánh dẹp luôn, nhưng cũng không bỏ việc chính-trị trong nước, bao giờ cũng để lòng thương dân. Hễ năm nào đói kém hay là đi đánh giặc về, thì lại giảm thuế cho hàng hai ba năm. Ngài sửa lại luật-phép, định các bậc hình-phạt, các cách tra-hỏi, …

Thái-tông trị-vì được 27 năm, đến năm giáp-ngọ (1054) thì mất, thọ 55 tuổi.


3.4.3  LÝ THÁNH-TÔNG (1054-1072)
Niên-hiệu : Long-thụy thái-bình (và nhiều niên-hiệu khác)

Việc Chính Trị
Thái-tử là Nhật Tôn lên ngôi tức là vua Thánh- tông, ngài đổi quốc-hiệu là Đại-Việt.

Thánh-tông là một ông vua nhân-từ, có lòng thương dân: một năm trời làm rét lắm, Thánh-tông bảo những quan hầu gần rằng: "Trẫm ở trong cung ăn-mặc như thế này còn rét, nghĩ những tù-phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm". Nói rồi truyền lấy chăn chiếu cho tù nằm, và mỗi ngày cho hai bữa ăn

Vua Thánh-tông có nhân như thế, cho nên trăm họ mến-phục, trong đời Ngài làm vua ít có giặc-giã. Ngài lại có ý muốn khai-hóa sự văn-học, lập văn-miếu, làm tượng Chu-công Khổng-tử và 72 tiên-hiền để thờ. Nước ta có văn-miếu thờ Khổng-tử và chư hiền khởi đầu từ đấy.

Lấy Đất Chiêm Thành
Vua Thánh-tông đã nhân mà lại dũng: nước Chiêm-thành hay sang quấy nhiễu, ngài thân chinh đi đánh. Đánh lần đầu không thành công, đem quân trở về. Đi đến châu Cư-liên (?) nghe thấy người khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên-trị, Thánh-tông nghĩ bụng rằng: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm-thành không thành công, thế ra đàn-ông hèn lắm à !" Lại đem quân trở lại đánh bắt được vua Chiêm-thành là Chế Củ.
Chế Củ xin dâng đất ba châu để chuộc tội, là châu Địa-lý, châu Ma-linh và châu Bố-chính (nay ở địa-hạt tỉnh Quảng-bình và tỉnh Quảng-trị). Thánh-tông lấy 3 châu ấy và cho Chế Củ về nước.

Năm nhâm-tí (1072) Thánh-tông mất, trị-vì được 17 năm, thọ 50 tuổi.


3.4.4 LÝ NHÂN-TÔNG (1072-1127)
Niên-hiệu : Thái-ninh (và nhiều niên-hiệu khác)

Ỹ Lan Thái-Phi
Vua Nhân-tông là con bà Ỹ-lan Thái-phi, người ở Siêu-loại (Bắc-ninh). Khi trước, vua Thánh-tông đã 40 tuổi mà không có con, đi cầu tự qua làng Thổ-lội (sau đổi là Siêu-loại rồi lại đổi là Thuận-quang), người đi xem đứng đầy đường, có một người con gái đi hái dâu, thấy xe nhà vua đi cứ đứng tựa vào cây lan chứ không ra xem. Vua thấy thế lấy làm lạ, truyền gọi đem vào cung, phong là Ỹ-lan phu-nhân. Được ít lâu có thai đẻ ra hoàng-tử là Càn Đức, được phong là Nguyên-phi.

Càn Đức làm thái-tử rồi lên nối ngôi, tức là vua Nhân-tông, phong cho mẹ làm Ỹ-lan thái phi.

Lý Đạo Thành
Lúc Nhân-tông lên làm vua mới có 7 tuổi, có quan Thái-sư là Lý đạo Thành làm phụ-chính.
Ông Lý đạo Thành là người họ nhà vua, tính rất đoan-chính, hết lòng lo việc nước. Thường những lúc sớ tấu cứ hay nói đến việc lợi hại của dân. Những quan-thuộc thì chọn lấy người hiền-lương mà cất nhắc lên để làm mọi việc. Bởi vậy thời bấy giờ trong thì sửa-sang được việc chính-trị, ngoài thì đánh nhà Tống, phá quân Chiêm. Ấy cũng nhờ có tôi hiền, tướng giỏi cho nên mới thành được công-nghiệp như vậỵ

Việc sửa sang trong nước
Việc đánh-dẹp về đời vua Nhân- tông thì nhiều, song những công-việc ở trong nước cũng không bỏ trễ. Đời bấy giờ mới khởi đầu đắp cái đê Cơ Xá để giữ đất kinh-thành cho khỏi lụt ngập. Việc đắp đê khởi đầu từ đó.
Năm ất-mão (1075) mở khoa thi tam-trường để lấy người văn-học vào làm quan.
Năm bính-thìn (1076) lập Quốc-tử-giám để bổ những người văn-học vào dạy. Đến năm bính-dần (1086) mở khoa thi chọn người văn-học vào Hàn-lâm-viện.
Sự nho-học nước ta khởi đầu thịnh lên từ thời bấy giờ.

Lý thường Kiệt

Nước ta lúc bấy giờ có được một danh tướng là Lý thường Kiệt, người ở phường Thái-hoà, huyện Thọ-xương (thành phố Hà-nội), có tướng tài, tinh thao-lược.
Ông đã có công đánh chặn quân nhà Tống cứ lăm-le có ý muốn xâm-lược và từ đó nước ta và nước Tàu lại thông sứ như cũ. 

Nhà Tống bấy giờ đã suy-nhược, đến năm bính-ngọ (1126) nước Kim (Mãn-châu) sang lấy mất cả phía bắc nước Tàu, nhà Tống dời đô về Hàng-châu (thuộc Chiết-giang) gọi là Nam-Tống.

Ngoài ra, nước Chiêm-thành thỉnh-thoảng cứ hay sang quấy-nhiễu, vua Nhân-tông sai Lý thường Kiệt vào đánh Chiêm-thành. Từ khi bình-phục được nước Chiêm-thành rồi, các nước ở phía nam đều về triều-cống.

Nhân-tông làm vua đến năm đinh-tị (1127) thì mất, trị-vì được 56 năm, thọ 63 tuổi.


3.4.5  LÝ THẦN-TÔNG (1128-1138)
Niên-hiệu: Thiên Thuận, Thiên Chương Bảo Tự

Nhân-tông không có con, lập con của hoàng-đệ là Sùng-hiền-hầu lên làm thái-tử, nay lên nối ngôi, tức là vua Thần-Tông.
Bấy giờ có các quan đại-thần là bọn ông Trương Bá Ngọc, Lưu Khánh Đàm, Dương Anh Nhị giúp Thần-tông trị nước.
Giặc-giã thời bấy giờ cũng ít.

Thần Tông làm vua được 10 năm thì mất, thọ 23 tuổi.


3.4.6  LÝ ANH-TÔNG (1138-1175)
Niên-hiệu:  Thiệu Minh (và nhiều niên-hiệu khác)

Thần-tông mất, triều đình tôn Thái-tử là Thiên Tộ lên làm vua, tức là vua Anh-tông.

Tô Hiến Thành

Ông Tô hiến Thành giúp vua Anh-tông đi đánh dẹp, lập được nhiều công to, như là bắt được giặc Thân Lợi, phá được giặc Ngưu Hống và dẹp yên giặc Lào, được phong làm chức Thái-úy coi giữ việc binh. Ông luyện tập quân-lính, kén-chọn những người tài giỏi để làm tướng hiệu.  Bởi vậy binh-thế nhà Lý lúc bấy giờ lại phấn-chấn lên. Ông giỏi việc võ và chăm việc văn.





Việc Chính Trị
Năm giáp-thân (1164) vua nhà Tống đổi Giao-chỉ quận làm An-nam quốc, và phong cho Anh-tông làm An-nam quốc-vương.
Nguyên khi trước, Tàu gọi ta là Giao-chỉ quận, rồi sau đổi là Giao-châu, đến thời nhà Đường đặt An-nam đô-hộ-phủ.
Nhà Đinh lên đặt Đại Cồ Việt, vua Lý Thánh-tông đổi là Đại-Việt nhưng Tàu vẫn phong cho vua ta là Giao-chỉ quận-vương, đến bấy giờ mới đổi là An-nam quốc-vương. Nước ta thành tên là nước An-nam khởi đầu từ đấy.

Năm ất-mùi (1175), Anh-tông phong cho Tô hiến Thành làm Thái-phó Bình-chương-quân-quốc trọng-sự và phong vương tước. Anh-tông đau, uỷ thác Thái-tử là Long Cán cho Tô hiến Thành.

Anh-tông mất, trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi.


3.4.7 LÝ CAO-TÔNG (1176-1210)
Niên-hiệu:  Trinh-phù (và nhiều niên-hiệu khác)

Tô Hiến Thành làm Phụ Chánh
Khi vua Anh-tông mất, Thái-tử Long Cán chưa đầy 3 tuổi, bà Chiêu-linh Thái-hậu muốn lập người con trưởng là con mình là Long Xưởng lên làm vua, đem vàng bạc đút lót cho vợ Tô hiến Thành, nhưng ông nhất thiết không chịu, cứ theo di-chiếu mà lập Long Cán, tức là vua Cao-tông.

Tô hiến Thành giúp vua Cao-tông trị nước, đến năm kỷ hợi(1179) thì mất.
Tô hiến Thành không những là một người có tài thao-lược, dẹp giặc yên dân mà thôi, cách thờ vua thật là trung-thành cho nên người đời sau thường ví ông với Gia cát Lượng đời Tam-quốc bên Tàu.

(Sử thần Ngô Sỉ Liên nói: Tô Hiến Thành nhân việc ký thác con côi, hết lòng trung thành, khéo xử trí khi biến cố, tuy bị gió lay sóng đập mà vẫn đứng vững như cột đá giữa giòng, khiến trên yêu dưới thuận, không thẹn với phong độ của đại thần đời xưa... Nguồn: Đại-Việt Sử-Ký Toàn Thư)

Đến khi Cao-tông lớn lên, cầm quyền trị nước, thì cứ đi săn bắn chơi bời, làm cung xây điện, bắt trăm họ phải phục-dịch khổ-sở. Ngoài biên thì quân mường thổ ở bên Tàu sang quấy nhiễu ở phía bắc, người Chiêm-thành sang đánh ở phía nam; trong nước thì nổi lên như ong dấy. Vua tôi không ai lo nghĩ gì về chính-trị, chỉ làm những việc nhũng-lạm, mua quan bán chức, hà-hiếp nhân-dân, lấy tiền để làm những việc xa-xỉ.
Nhà Lý bắt đầu sa sút từ đây.

Sự nổi loạn
Năm bính-thìn (1208) ở Nghệ-an có Phạm Du làm loạn. Cao-tông sai quan Phụng-ngự là Phạm bỉnh Di đi đánh Phạm Du. Bỉnh Di đem quân vào đến nơi đánh đuổi Phạm Du đi và tịch-biên cả của-cải, đốt  phá cả nhà cửa.
Phạm Du cho người về kinh, lấy vàng bạc đút lót với các quan trong triều, để vu cho Bỉnh Di làm việc hung bạo, giết hại những kẻ không có tội. Cao-tông nghe lời, triệu Phạm bỉnh Di về xét tội.
Bấy giờ có bộ tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân phá cửa thành vào cứu Bỉnh Di.
Cao-tông thấy biến, bèn đem giết Phạm bỉnh Di đi, rồi cùng với Thái- tử chạy lên Qui Hóa (thuộc Phú- thọ). Bọn Quách Bốc đưa xác Bỉnh Di ra mai táng xong rồi, lại vào điện, tôn Hoàng-tử Thẩm lên làm vua.

Khi Thái-tử Sảm chạy về Hải-ấp, vào ở nhà Trần Lý. Đến khi Thái-tử Sảm chạy về đấy, thấy con gái Trần Lý có nhan sắc, lấy làm vợ, rồi phong cho Trần Lý tước Minh-tự và phong cho người cậu Trần-thị là Tô trung Từ làm Điện-tiền Chỉ-huy-sứ.

Anh em họ Trần mộ quân về kinh dẹp loạn, rồi lên Qui-hóa rước Cao-tông, cho quân về làng Lưu-gia đón Thái-tử, còn Trần-thị thì về ở nhà Trần Lý.

Cao-tông về kinh được một năm thì phải bệnh, đến năm canh-ngọ (1210) thì mất, trị-vì được 35 năm, thọ 38 tuổi.

(Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Thái tử [Sảm] đi lần này là vì nước loạn mà tránh nạn, sao lại buông lòng dâm dục ở ngoài mà tự tiện phong tước cho người? Bởi Cao Tông rong chơi vô độ, giường mối bỏ hỏng, cho nên mới thế. Nhưng họ Lý nhân thế mà vong, họ Trần nhân thế mà hưng, ấy là do trời cả. Nguồn: Đại-Việt Sử-Ký Toàn Thư)


3.4.8 LÝ HUỆ TÔNG (1211-1225)
Niên-hiệu:  Kiến-gia (1211-1224)

Trần Thị
Thái-tử Sảm lên ngôi, tức là vua Huệ-tông, rồi sai quan đi rước Trần-thị về phong làm Nguyên-phi.
Khi bấy giờ bà Thái-hậu cho Tự Khánh là phản-trắc, thường chỉ mặt Trần-thị mà xỉ mắng và xui Huệ-tông bỏ đi. Huệ-tông không nghe. Thái- hậu định bỏ thuốc độc cho Trần-thị, nhưng Huệ-tông biết ý, đến bữa ăn thì ăn một nửa, còn một nửa cho Trần-thị ăn và ngày đêm không cho đi đâu. Sau vì Thái-hậu làm ngặt quá, Huệ-tông và Trần-thị đêm bèn lẻn ra đi đến nhà tướng-quân Lê Mịch ở huyện Yên-duyên rồi lại đến Cửu-liên (?), cho đòi Tự Khánh đến chầu.

Quyền về họ Trần
Trần tự Khánh đem quân đến hộ giá. Huệ-tông phong Trần-thị làm Hoàng-hậu, Tự Khánh làm Phụ-chính và người anh Tự Khánh là Trần Thừa làm Nội-thị Phân-thủ. Trần tự Khánh cùng với Thượng-tướng-quân là Phân Lân sửa-sang quân ngũ, làm đồ chiến-khí, luyện-tập việc võ. Từ đấy quân-thế lại nổi dần dần lên.

Huệ-tông phải bệnh, thỉnh-thoảng có cơn điên, rồi cứ uống rượu say cả ngày, có việc chính-trị đều ở tay Tự Khánh quyết đoán cả.
Đến tháng chạp năm quí-mùi (1228) Tự Khánh mất, Huệ-tông cho Trần Thừa làm Phụ-quốc Thái-úy, sang năm sau lại cho người em họ Hoàng-hậu là Trần thủ Độ làm Điện-tiền chỉ-huy-sứ. Từ đó việc gì ở trong triều cũng quyền ở Thủ Độ cả.
Huệ-tông có bệnh mãi không khỏi, mà Thái-tử thì chưa có, Trần-thị thì chỉ sinh được hai người con gái. Công chúa thứ nhì, Chiêu-thánh công chúa tên là Phật-kim mới 7 tuổi, Huệ-tông yêu mến lắm, cho nên mới lập làm Thái-tử.
Tháng 10 năm giáp-thân (1224) Huệ-tông truyền ngôi cho Chiêu-thánh công-chúa, rồi vào ở chùa Chân-giáo.

Huệ-tông trị vì được 14 năm.

3.4.9 LÝ CHIÊU-HOÀNG (1225)
Niên-hiệu: Thiên-chương-hữu-đạo

Chiêu-thánh công-chúa lên ngôi, tức là vua Chiêu-hoàng. Bấy giờ quyền-chính ở cả Trần thủ Độ. Thủ Độ lại tư thông với Trần Thái hậu, đêm ngày mưu lấy cơ-nghiệp nhà Lý, bèn đòi các con quan vào trong cung để hầu Chiêu-hoàng, và lại cho cháu là Trần Cảnh vào làm chức Chính-thủ. Đến tháng chạp thì Chiêu-hoàng lấy Trần Cảnh và truyền ngôi cho chồng.

Nhà Lý đến đấy là hết, cả thảy làm vua được 216 năm, truyền ngôi được 9 đời.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Đến thời Huệ Tông, cái độc hại cho thiên hạ đã ăn sâu lắm, mà vua không phải người giỏi giang cứng cáp, bề tôi giúp nước thì nhu nhược hèn kém, muốn chữa cái độc đã sâu thì làm thế nào được. Huống chi vua lại bị chứng hiểm, chữa không khỏi, lại không có con trai để nối nghiệp lớn, thế là điểm nguy vong đã hiện ra rồi… 
Nguồn: Đại-Việt Sử-Ký Toàn Thư)

Nhà Lý có công làm cho nước Nam ta nên được một nước cường- thịnh: ngoài thì đánh nước Tàu, bình nước Chiêm, trong thì chỉnh-đốn việc võ-bị, sửa-sang pháp-luật, xây vững cái nền tự-chủ.
Vì vua Cao-tông hoang chơi, làm mất lòng người, cho nên giặc-giã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Huệ-tông lại nhu-nhược bỏ việc chính-trị, đem giang-sơn phó-thác cho người con gái còn đang thơ-dại, khiến cho kẻ gian-hùng được nhân dịp mà lấy giang-sơn nhà Lý và lập ra cơ-nghiệp nhà Trần vậy.

Xin mời đọc tiếp : Nhà Trần
Yên Hà, tháng 9, 2016

Tài-liệu nguồn :
- Việt-Nam Sử-Lược (1919) : Lệ Thần Trần Trọng Kim
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1697)

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.