Le ciel est par-dessus le toit
(Paul Verlaine)
Le ciel est, par-dessus le toit,
Si bleu, si calme Un arbre, par-dessus le toit, Berce sa palme. La cloche, dans le ciel qu'on voit, Doucement tinte. Un oiseau sur l'arbre qu'on voit Chante sa plainte. Mon Dieu, mon Dieu, la vie est là Simple et tranquille. Cette paisible rumeur-là Vient de la ville. Qu'as-tu fait, ô toi que voilà Pleurant sans cesse, Dis, qu'as-tu fait, toi que voilà, De ta jeunesse ? |
Bầu trời trên mái nhà
(Yên Hà)
Bầu trời trên mái nhà,
Thật xanh, thật êm
Cây cọ bên mái nhà
Đong đưa cành lá.
Chuông thấy trên bầu trời
Nhẹ nhàng ngân reo
Con chim thấy trên cây
Hót điệu than van.
Trời ơi, cuộc sống đây
Bình-thường, thanh thản.
Tiếng ồn-ào êm-ả Từ thành-phố vọng về.
Còn ta đã làm gì
Khóc lóc không ngừng Hả? còn ta đã làm gì Với tuổi thanh xuân mình? |
Bài thơ này, Paul Verlaine đã viết trong tù, sau khi ông bị xử án hai năm vì đã bắn hai phát súng vào người bạn/người yêu là Arthur Rimbaud (*).
Ngồi trong tù, thế-giới của Verlaine thu gọn lại trong bốn bức tường và nhìn qua cửa-sổ song sắt, chỉ thấy mái nhà, thấy ngọn cây, có nhìn lên nữa cũng chỉ thấy được bầu trời.
Đâu đây, nghe tiếng chuông ngân hay nghe tiếng chim hót, và xa xa vọng về tiếng ồn từ thành-phố, như để nhấn mạnh thêm sự tĩnh-mịch của nhà tù.
Sau mấy năm sóng gió trong mối liên-hệ đồng-tình luyến-ái với Rimbaud, sự "thanh-thản" bất-đắc-dĩ này là dịp để thi-sĩ ổn-định tâm-thần và suy gẫm về những sai lầm của mình. Ông chợt "thức-tỉnh" và chỉ biết tự-trách.
Trong bài này, tác-giả đã nhìn-nhận sự yếu-đuối của con người mình một cách minh-mẫn, như một tiếng thở-dài.
Ngồi trong tù, thế-giới của Verlaine thu gọn lại trong bốn bức tường và nhìn qua cửa-sổ song sắt, chỉ thấy mái nhà, thấy ngọn cây, có nhìn lên nữa cũng chỉ thấy được bầu trời.
Đâu đây, nghe tiếng chuông ngân hay nghe tiếng chim hót, và xa xa vọng về tiếng ồn từ thành-phố, như để nhấn mạnh thêm sự tĩnh-mịch của nhà tù.
Sau mấy năm sóng gió trong mối liên-hệ đồng-tình luyến-ái với Rimbaud, sự "thanh-thản" bất-đắc-dĩ này là dịp để thi-sĩ ổn-định tâm-thần và suy gẫm về những sai lầm của mình. Ông chợt "thức-tỉnh" và chỉ biết tự-trách.
Trong bài này, tác-giả đã nhìn-nhận sự yếu-đuối của con người mình một cách minh-mẫn, như một tiếng thở-dài.
(*) Thi-sĩ Xuân-Diệu có viết một bài thơ, nhan-đề "Tinh trai" để nêu lên mối tình giữa Rimbaud và Verlaine. Xin được trích bốn câu:
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine
Hai chàng thi-sĩ choáng hơi men
... ... ...
Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine
Hai chàng thi-sĩ choáng hơi men
... ... ...
Thây kệ thiên đường và địa ngục
Không hề mặc cả, họ yêu nhau.
Còn về mối liên-hệ của Xuân-Diệu với nam-giới, đăc-biệt là với người em rể Huy-Cận ("chàng thơ" của Xuân-Diệu) thì lại là chuyện khác.
Không hề mặc cả, họ yêu nhau.
Còn về mối liên-hệ của Xuân-Diệu với nam-giới, đăc-biệt là với người em rể Huy-Cận ("chàng thơ" của Xuân-Diệu) thì lại là chuyện khác.
Yên Hà, tháng bẩy, 2012
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.