UA-83376712-1

Labels

May 27, 2014

Về hưu


Bốn giai-đoạn đời

Vạn-vật xoay vần theo bốn mùa: Xuân tươi mát, Hạ nóng ấm, Thu hiu hiu, Đông giá lạnh, rồi lại trở về Xuân....
Đức Phật Thích Ca nhận thấy vòng luân-hồi con người là Sinh, Lão, Bệnh, Tử, chu-kỳ này truyền từ đời này qua đời nọ.

Nói một cách thực-tiễn hơn, tôi nhận thấy cuộc đời chúng ta phần lớn gồm có 4 giai-đoạn: Rong chơi, Đi Học, Đi làm, và cuối cùng là Về hưu.
Rong chơi là một giai-đoạn có thể gọi là vô tư lự: không phải làm bất cứ điều gì ngoài tam khoái (ăn, ngủ, tiêu hóa) và chơi (một mình, với bố mẹ, với gia đình và bạn bè ở vườn trẻ hay lớp mẫu giáo). Và cũng không phải bận tâm bất cứ chuyện gì.
So với giai-đoạn trên, về hưu cũng có nhiều điểm tương-tự: bớt phải bận-tâm nhiều vì con cái phần đông đã lập gia-đình, nhà cửa đã trả xong, không còn công việc phải làm, mà lại có đủ tứ khoái nữa.
Giai-đoạn "đi học" thì sướng ở điểm không phải lo nghĩ chuyện gì ngoài việc học và khám phá cuộc đời. Ngược lại, ta phải tuỳ thuộc bố mẹ và không có phương-tiện tài chính hay hợp-pháp để làm tất cả những gì mình muốn.
Đi làm là giai-đoạn mình hăng say lao thân vào đời để kiếm tiền nuôi thân, nuôi gia-đình và để "thành công" ngoài đời. Có tiền nhưng phải vất vả, phải bon chen.
So với giai-đoạn này, về hưu cũng được điểm lợi chính là có tiền (tuy là ít hơn) nhưng không phải làm gì hết, chỉ lo hưởng đời.
Tôi nhận thấy người Pháp dùng chữ "partir à la retraite" (đi hưu), nghĩa là từ vị trí đang làm việc, trong khi Việt-Nam mình gọi là "về hưu", nghĩa là trở về cuộc sống của mình, trở về giai-đoạn đầu là rong chơi (?)

Mỗi giai-đoạn có những đặc-điểm của nó, có điểm lợi, điểm bất lợi nên khó mà nói giai-đoạn nào là "sướng" nhất trong đời, chỉ biết sống "theo thời" mà thôi.
Tôi thì đã về hưu 4 năm nay rồi, còn vợ tôi vừa về hưu non bốn tháng nay nên cũng là cơ-hội để chia sẻ cùng bạn đọc một vài cảm nghĩ, cảm xúc qua kinh nghiệm bản thân.

Về hưu: một sự lựa chọn cá-nhân

Tùy theo mỗi nước, tùy theo mỗi nghề, mỗi ngạch, vấn-đề về hưu có nguyên-tắc và qui-luật định rõ điều-kiện (tuổi tác, số năm làm việc, lương bổng, ...) để được nhận tiền hưu-trí, trợ-cấp xã-hội, phúc-lợi về y-tế, ... Phần đông mọi người cứ theo luật, chờ đến đúng tuổi thì về hưu. 
Đối với những ai muốn về hưu sớm hơn thì cũng có luật-lệ qui định điều-kiện và quyền-lợi một cách rõ ràng để mỗi người có đủ yếu-tố khách quan để phân-tích, so sánh và quyết-định về hưu trong điều-kiện nào.
Những yếu-tố khách quan thì áp dụng cho mọi người, nhưng những tiêu-chuẩn còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc mỗi người nên quyết-định là một sự lựa-chọn riêng của từng cá-nhân.
Nếu chỉ so-sánh trên phương-diện tài-chánh thì đương nhiên là về hưu đúng tuổi (hay trễ hơn) vẫn lợi hơn. Và ngược lại, muốn về hưu non thì phải chịu được ít trợ-cấp hơn. Cho nên chúng tôi đã phải suy-nghĩ cách khác là: 
"Tôi muốn ngưng làm việc càng sớm càng tốt và trong trường-hợp của tôi thì bao giờ tôi mới có khả năng này và với điều-kiện nào?" 
Nhưng muốn trước khi đặt câu-hỏi này, chúng tôi đã phải tự đặt và tự trả lời một vài câu hỏi chính yếu.

Đi làm để sống hay sống để đi làm?

Nói cách khác, việc làm (và tiền) là một phương-tiện hay một mục đích?
Có những người  lấy sự-nghiệp, quyền-quí, danh vọng hay tiền bạc làm mục đích sống và dùng việc làm để thành công và dĩ nhiên đó là lựa chọn của mỗi người.

Riêng tôi, sau 15 năm đi làm công, tôi đã từ bỏ sự nghiệp và quyết định ra làm riêng nhưng cũng chỉ làm một mình chứ không muốn (không biết) mở và khuếch-trương một công-ty riêng. Công việc tôi là cố-vấn quản trị (management consulting) nên rất là thú vị, nhất là làm riêng thì tự do, thoải mái hơn đi làm công. Tôi đã lựa chọn Tự-Do trên Sự-Nghiệp.
Phần vợ tôi thì đã từng làm việc 32 năm cho cùng một hãng, trong cùng một ngành.
Cho nên, đối với riêng chúng tôi, công ăn việc làm chỉ là phương-tiện mưu sinh mà thôi, phải nói thẳng là như vậy.


Mục đích cuộc sống là gì?
Không cần phải triết-lý xa vời. Nói cách khác, nhu-cầu thiết yếu của mình là gì? Thế nào là sống đủ? Thế nào là sống vui? 
Trên đời này, ai chẳng thích có tiền để mua sắm, để đi chơi, nhất là bên thiên-đàng tiêu-thụ này? Nhưng thế nào là đủ giàu?
Tôi nhớ lại một lần nói chuyện với một thằng bạn, tôi kể rằng tôi chẳng bao giờ kiểm tra sổ sách ngân hàng thì nó nói tôi: "Như vậy có nghĩa là mày giàu". Có lẽ tôi không cần theo dõi sổ sách vì tôi tự biết mình có thể mua những gì mình có khả năng mua, vì tôi tự biết giới hạn của mình?
Có lẽ là vậy: mình (đủ) giàu nếu mình không cần chạy theo tiền để (đủ) vui sống.

Dĩ nhiên là nếu trúng số hay hưởng gia-tài một ông chú, bà bác nào thì tôi sẽ mừng lắm nhưng không có, tôi vẫn sống vui thôi.

Tính toán: Mưu sư tại nhân, thành sự tại thiên
Tính xa tính gần, tính ngược tính xuôi nhưng có một điều chính yếu mà không ai có thể đoán chắc được là bao giờ ông Giời sẽ gọi mình đi. Trên phương-diện này, chúng ta chỉ có thống-kê, cái gọi là tuổi thọ trung bình, hay kỳ-vọng sống (espérance de vie / life expectancy).
Nhưng thống-kê chỉ tính trên người đã chết thì làm sao dự-tính cho người còn sống? 
Mặt khác, tôi sinh trưởng ở Việt-Nam (tuổi thọ trung bình 73 tuổi) nhưng đã sống bên Bỉ (78 tuổi), bên Pháp (79 tuổi), bên Mỹ (75 tuổi) thì tôi phải dựa trên thống-kê nào đây? 
Một điều quan-trọng nữa: lấy thí dụ một người đàn ông Pháp, thọ trung bình 79 tuổi, về hưu đúng tuổi, nghĩa là 65 đến 67 tuổi (tuỳ theo năm sinh), hoá ra chỉ "hưởng nhàn" được có 12 đến 14 năm sau khi "đi cầy" hơn nửa đời người thôi ư?
Đã bao nhiêu bạn bè cùng lứa tuổi tôi đã vĩnh-viễn ra đi rồi?
Cho nên thôi, nhất là vợ chồng chúng tôi gặp nhau ở đầu thu cuộc đời, nếu không dành thời-gian còn lại cho nhau thì chờ đến bao giờ?

Tuổi già
Tôi quen một vài anh bạn tuổi đã ngoài 70 nhưng vẫn còn leo lên mái nhà cào tuyết hay vẫn còn chơi trượt nước (water ski). Nhưng trừ một vài ngoại lệ như vậy, vào tuổi này, chúng ta bắt đầu khó mà dối già nữa. Tôi thiết nghĩ mình còn (tương đối) trẻ trong đầu, trong tim, nhưng thật ra thì đến một lúc nào, Thân không còn biết vâng lời Tâm nữa. 
Chúng tôi bây giờ đi chơi nhạc đến 1 giờ sáng rồi khiêng dọn đồ nghề và lái xe 3 tiếng nữa để về nhà thì thôi, xin đầu hàng vô điều-kiện. Thật ra, muốn "gồng" thì cũng được, nhưng "hành hạ" cái thân già để làm gì? Còn bao nhiêu dịp chơi, bao nhiêu điều hưởng-thụ khác, "chơi xả láng" để làm gì?
Nói cho ngay, đến tuổi này rồi, mình cũng không còn những hoài bảo, những nhu-cầu như lúc còn 30 hay 50 tuổi nữa. Mình cũng không còn suy nghĩ "như trước" nữa.
Đến tuổi này, có lẽ mình sống với chính mình hơn, với thế-giới bên trong nhiều hơn, sống với tinh thần, tình cảm nhiều hơn là vật chất.

Không gian mình cũng thu hẹp lại với gia-đình, bạn bè, người thân nhiều hơn. Liên-hệ với mọi vật, với người, với chính mình cũng thay đổi.
Thời gian cũng không còn giá-trị như trước nữa. Lúc mới đi làm, chúng ta chạy theo sự mưu sinh, lúc kinh-nghiệm rồi thì chạy theo sự-nghiệp, lúc lập gia-đình rồi thì tiếp tục chạy để làm tròn nhiệm-vụ cha mẹ, lúc có tiền thì chúng ta sống vội để hưởng thụ. Chúng ta cứ cắm đầu chạy theo thời-gian để "thành công" ngoài đời. Chúng ta "sống không kịp thở". Chúng ta có thể thành công nhưng chúng ta đã thành nhân chưa? Chúng ta thành công ngoài đời (réussir dans la vie) hay thành công cuộc đời mình (réussir sa vie) ?
Giờ đây, chúng tôi không còn gì để chứng minh với ai hay với chính mình. Chúng tôi không còn hẹn với sự thành công, với tình yêu, tiền tài, danh vọng nữa. (Vả chăng, thành công hay thất bại thì cũng đã trễ rồi, bài thi đã phải nộp và điểm đã được công-bố). Không còn sếp lớn, sếp nhỏ hối thúc, không còn đối thủ hay đồng nghiệp tranh dành vị trí với mình, không còn chủ nợ đến đòi tiền, không còn lo ăn học cho con cái. Giờ đây, ngày nào cũng là cuối tuần, là ngày nghỉ, nơi nào cũng là nơi vui hưởng, là nơi nghỉ chân. 
Giờ đây, chỉ còn lại hai thân già dắt nhau đi thung dung trên con đường còn lại.
Chúng tôi đã đặt hành-trang xuống, tâm và thân cũng đã nhẹ nhiều. 
Cuộc sống đầu đông cũng bắt đầu chậm lại, tạo hoá đã như vậy rồi.

Nghỉ việc để làm gì?
Đi làm 8 tiếng, cộng thêm giờ ăn và di chuyển, tổng cộng khoảng 10 tiếng mỗi ngày. Không đi làm thì 10 tiếng đó, thay thế bằng cái gì? 
Về hưu là thôi đi làm, nghĩa là thời-gian của mình "hoàn toàn" là của mình, mình đã trở thành "tỷ phú thời-gian", mình muốn làm gì thì làm. Nhưng làm gì bây giờ? 
Câu hỏi này không dễ vì "thiên-nhiên không thích khoảng trống" (la nature a horreur du vide, Aristote). Tôi biết một vài người đã đủ tuổi nhưng chưa "dám" về hưu vì sợ ở nhà không biết làm gì? 
Nói đến về hưu, chúng ta thường nghĩ đến hai chữ "hưởng nhàn". Nhàn có nghĩa là không bắt buộc phải làm gì, hoặc chỉ làm việc nhẹ và không bị hối thúc. Nhàn cũng có nghĩa là tự do, muốn làm gì thì làm, không muốn làm gì thì không làm gì.
Có những bạn có thời giờ rảnh thì ghi tên đi học nhảy, học đàn, học hát. Có những bạn viết văn, làm thơ, soạn nhạc, học vẽ, ... Có những bạn lo cho sức khoẻ của mình, xoay ra đi chơi golf (sau khi phải bỏ tennis), đi xe đạp, tập yoga hay khí công hay tai-chi (thái cực quyền) hoặc ở nhà làm vườn. 
Có những bạn hưởng hạnh-phúc gia-đình, để ý đến bố mẹ hơn, lo cho con, trông nom cháu. Bạn bè cũng là một liên-hệ quí giá đem lại niềm vui trong tuổi này.
Lại có những bạn hăng say làm việc từ-thiện, chia sẻ với người, với đời. 
Việc làm cho mình không phải ít, chỉ tuỳ theo sở-thích và khả-năng mỗi người, nhưng nói chung thì làm gì cũng đem lại niềm vui trong đời.

Đôi khi, đây cũng là cơ-hội để thực-hiện một giấc mộng ấp ủ từ lâu. Đây cũng là đề tài của cuốn phim "The bucket list" (2007), chuyện hai người đàn ông đã kê ra và thực-hiện danh sách những việc mình muốn làm trước khi chết.

Sống cho trọn vẹn
Nhưng mà này, tôi không có chủ-trương đi làm hay về hưu, không có lập-trường phải làm gì hay không làm gì khi về hưu. Tôi không bàn luận về một "sự thật" nào cả.
Tôi chỉ muốn nói mỗi tuổi mỗi khác và chúng ta khó mà bơi ngược giòng.
Tôi chỉ muốn nói đời sống mỗi người là một sự lựa chọn riêng và không ai đúng, ai sai.
Nhưng làm gì thì làm, tôi nghĩ đây là những cơ-hội cuối cùng, là chuyến tàu cuối đời. 
Đến "ngày đó", lúc đó, tôi không muốn phải tự hỏi: "Tôi đã sống đủ chưa? Tôi đã được sống như tôi muốn sống không?". Tôi không muốn phải tự nói "Nếu lúc trước..."

Chúc tất cả các bạn, còn làm việc hay đã về hưu, sống yên vui.
Yên Hà, tháng năm, 2014

Tiếng nước tôi: Văn-học dân gian (1) / Thành ngữ

Thiết nghĩ dân-tộc Việt-Nam yêu ngôn-ngữ mình và biết dùng nó để phát-biểu tâm-hồn nghệ-thuật và tình cảm của mình trong mọi tầng lớp xã-hội và dưới nhiều hình-thức. Không cần phải là kẻ sĩ, người dân thường cũng đã đóng góp rất nhiều trong văn-học truyền-khẩu Việt Nam với những thành-ngữ, tục-ngữ, ca dao và dân ca.

Vài định-nghĩa:
Thành Ngữ = những câu nói ngắn gọn dân gian thường dùng trong khi nói hay viết cho có vẻ màu mè. 
Gần thành-ngữ, còn có quán-ngữ (những chữ quen dùng nhưng không phải để thêm màu mè).

Tục-ngữ = Câu nói có tính cách răn dạy hay châm biếm chuyện đời.
Chúng ta sẽ gom trong thể-loại này những cách-ngôn (lời nói làm khuôn phép), ngạn-ngữ (lời người xưa truyền lại), danh-ngôn (những lời nói hay và sâu sắc được truyền tụng), châm-ngôn (lời văn có vần điệu để khuyên đời), ngụ-ngôn (lời nói có ý nghĩa bên trong), phương-ngôn (tục-ngữ địa-phương).

Ca Dao = Câu hát ngắn thành khúc điệu được phổ thông trong dân gian.
Và còn có Phong Dao = lời ca câu hát của dân gian tại các địa phương
Đồng Dao = thơ ca dân-gian truyền miệng của trẻ em
Dân Ca = Bài ca có tính cách dân tộc, dễ hiểu và hợp với tâm tình đơn giản của nhân dân.

Để phân-biệt 4 thể-loại này:
- Thành-ngữ chỉ dùng để mô-tả, nói (viết) cho văn-chương, màu mè, trong khi Tục-ngữ có ý răn đời hay chăm biếm.
Thành-ngữ chỉ là một nhóm từ, Tục-ngữ dù ngắn đến đâu cũng phải là một câu hoàn-chỉnh.

- Dân ca hẳn là một bài hát, trong khi Ca-dao chỉ là những câu ca nho nhỏ, hát ví-von.

1. Thành-ngữ
Hình như Việt-Nam ta không thích nói hay viết "bình thường".
Có lẽ tiếng Viết ta đơn âm nhưng lại đa thanh nên chúng ta thích dùng từ láy nghe cho đỡ “trơ trọi” mà lại trầm bổng, êm tai hơn (?)
Mặt khác, dùng chữ thì phải cho văn hoa, bóng bảy, cho màu mè để nhấn mạnh, để diễn tả mạnh mẽ hơn, để đập vào trí tưởng-tượng của người nghe, người đọc:
Thay vì nói "đêm ấy, trời rất tối", chúng ta nói "đêm ấy, trời tối đen như mực"; thay vì nói "ông ta suốt ngày làm việc khổ cực", chúng ta nói "ông ta suốt ngày đầu tắt mặt tối".

Và rồi dần dà gây dựng nên một kho chữ làm mẫu cho nhau, từ thế-hệ này qua thế-hệ khác. Gọi là văn chương truyền-khẩu nên không có sách ghi chép, cắt nghĩa rõ ràng (trước đây làm gì có Google như bây giờ?) nên nghe một câu thành-ngữ thì chúng ta thường hiểu ý, nhưng đôi khi cũng không hiểu rõ nguồn gốc từ đâu ra. 
Tại sao lại "nói toạc móng heo"? Bây giờ tham khảo mới hiểu nghĩa bóng là "làm mất cái vỏ bề ngoài (móng heo) để làm rõ cái bên trong (ngón chân heo)".
Tại sao lại "chim kêu vượn hú"? Thành ngữ này xuất-phát từ tục-ngữ miền Nam:
Má ơi! Đừng gả con xa
chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?
ngụ ý cô con gái xin mẹ đừng gả mình cho người làng khác, xa xôi quá lại nhớ ba má.

Là loại văn-chương truyền-khẩu nên mỗi vùng có từ-vựng của mình, có cách nói, cách viết của mình, cho nên thành-ngữ miền này, đôi khi người miền kia không biết, không hiểu, nhưng phần đông thì cũng đoán ra được.

1.1 Nội-dung
Thành-ngữ dùng để nhấn mạnh ý mình muốn nói bằng cách so sánh hay một thí-dụ bóng bảy. Cho nên thành-ngữ thường có hai nghĩa, nghĩa đen trong câu nói và nghĩa bóng là ẩn ý.
Thí dụ phải gợi hình, gợi cảnh, gợi cảm và thường được phóng đại quá mức để người nghe phải để ý. Không ai hiểu "bị đè đầu cỡi cổ" (hay "trèo đầu trèo cổ") theo nghĩa đen là bị kẻ mạnh đè đầu xuống và ngồi lên cổ, mà chỉ hiểu theo nghĩa bóng là bị áp bức. 

Cứ cần nói cho bóng bảy thì người ta dùng đến thành-ngữ, nhất là để so sánh hay để chỉ trích hay nói mỉa. Ngoài ra, đối với văn-hoá Việt-Nam, có lẽ những việc liên-quan đến ăn uống, giàu nghèo, sống chết rất hay được đề-cập đến.

1.1.1 Thành-ngữ dùng để so sánh
Để mô tả một sự kiện một cách bóng bảy, chúng ta thường so sánh với một con vật, một nhân vật, … Thí-dụ như:
Đẹp như tiên, xấu như ma lem,
đen như cột nhà cháy, trắng như tuyết, vàng như nghệ,
tối như mực, sáng như ban ngày,
nhanh như cắt, nhanh như điện,

Súc vật cũng hay được dùng để so sánh:
Khỏe như voi,
nói dai như đỉa,
chậm như rùa,
khôn ranh như cáo,
lòng lang dạ sói,
ngang như cua,
ngu như bò (thành ngữ “ngu như chó” có lẽ chỉ dùng để “mắng chửi”?)

Điển-tích hay Nhân-vật lịch-sử hay trong truyện cũng được chiếu-cố nhiều, thí-dụ như:
Đa-nghi như Tào Tháo (nhân-vật trong Tam Quốc Chí),
chết đứng như Từ Hải (trong truyện Kiều),
ghen như Hoạn Thư (cũng trong truyện Kiều),
đẹp như Tây Thi (một trong Tứ Đại Mỹ Nhân thời Xuân-Thu),
xấu như Chung Vô Diệm (Vương Hậu của Tuyên Vương nước Tề),
tri-kỷ như Bá Nha, Tử Kỳ,
...

Câu Tiễn "nằm gai nếm mật": thuộc bộ tem "Thành-ngữ điển-tích" Trung Hoa.

Truyện rằng: Thời Xuân Thu, Việt Vương Câu Tiễn sau khi ở nước Ngô trở về, thường nằm ngủ trên gai, có treo túi mật đắng để nếm trước khi ăn uống. 
Ý của thành-ngữ này là ý chí chịu đựng khó khăn để mưu-sự việc lớn.




1.1.2 Thành-ngữ dùng súc vật trong nghĩa bóng
Hình như dân ta thích mượn súc vật để so sánh hay để gợi ý trong chuyện đời và thành-ngữ hay đề-cập đến súc vật.
 
Thí dụ thì nhiều vô số kể, viết bao nhiêu trang cũng không đủ:

Đàn gảy tai trâu
Rồng đến nhà tôm,
cõng rắn cắn gà nhà,
nuôi ong tay áo,
cò bay thẳng cánh,
con sâu làm rầu nồi canh,
chuột sa chĩnh (hũ) gạo,
nước mắt cá sấu,
lên voi xuống chó,
đầu voi đuôi chuột,
hàng tôm hàng cá,
vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm,

1.1.3 Thành-ngữ liên-quan đến việc ăn uống hay giàu nghèo
Có lẽ nước ta nghèo nên việc ăn uống hay việc mưu-sinh là những mối quan-tâm lớn, ảnh hưởng đến ngôn-ngữ mình (?)
Có những thành-ngữ như:
Ăn bờ ở bụi,
ăn gió nằm mưa,
ăn thúng uống vại,
cố (= chịu) đấm ăn xôi,
ăn bữa hôm, lo bữa mai,
ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau,
kén cá, chọn canh,
giận cá chém thớt,
...
Hay để nói về sự giàu nghèo:
chó ăn đá, gà ăn sỏi,
nghèo rớt mồng tơi,
giàu nứt đố (= thanh gỗ đóng vào vách) đổ vách,
ăn sung mặc sướng,
nước lọ, cơm niêu,
nhà tranh vách đất, nhà cao cửa rộng,

1.1.4 Thành-ngữ liên-quan đến sống chết

Sống cái nhà, già (= chết) cái mồ,
chết bờ chết bụi (= chết đường chết chợ),

chết lỗ chân trâu,
thập tử nhất sinh,
vào sinh ra tử,
sống dở chết dở,
(chạy) bán sống bán chết,
sống khôn thác thiêng,
thoát trong đường tơ kẽ tóc,

1.1.5 Thành-ngữ nói về đạo làm người hay nhân tình thế thái
Kinh-nghiệm đời thường thể-hiện qua tục-ngữ, phong dao, còn thành-ngữ thường được dùng để chỉ trích, mỉa mai hơn. 
Thí dụ:
Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm,
no cơm ấm cật,
lười như hủi, (lười) há miệng chờ sung (rơi vào miệng),
dở dở ương ương,
khôn nhà dại chợ,
việc nhà thì nhác (= lười) việc chú bác thì năng (= siêng),
bới lông tìm vết,
ăn mày đòi xôi gấc,
con nhà lính tính nhà quan; lỡ ông, lỡ thằng,
phú quí sinh lễ nghĩa; trưởng giả học làm sang,
đã ngọng còn hay lu, đã ngu còn hay chơi chữ,
vắt chanh bỏ vỏ, ăn cháo đá bát, qua cầu rút ván, đánh trống bỏ dùi, có trăng quên đèn, có mới nới cũ... (không hiểu sao lại có nhiều thành-ngữ để diễn tả ý này thế?),
Hà tiện thì bị gọi là “rán sành ra mỡ” hay “vắt cổ chày ra nước".
“Chữ mình, vợ người” được dùng để nói lên thói đời: về chữ nghĩa thì tự phụ mình nhất, nhưng nói đến vợ thì lại thích đi dòm ngó vợ người.


1.2 Thành-ngữ Hán-Việt
Thành-ngữ Việt-Nam dĩ nhiên ảnh hưởng tiếng Hán rất nhiều.
a. Thành-ngữ nguyên-bản gốc Hán:
Tham quyền cố vị,
tâm đầu ý hợp,
vạn sự khởi đầu nan,
vô danh tiểu tốt,
bất phân thắng bại,
cẩn tắc vô áy náy,

b. Thành-ngữ Hán được dịch ra tiếng Nôm:
Tỉnh đế chi oa -> Ếch ngồi đáy giếng,
Tri kỷ tri bỉ -> Biết mình biết người,
Bách chiến bách thắng -> Trăm trận trăm thắng,
Đại ngư cật tiểu ngư -> Cá lớn nuốt cá bé,
Hữu danh vô thực -> Có tiếng không có miếng,

c. Thành-ngữ Hán được thay đổi chút cho dễ phổ-thông
Mã đáo công thành -> Mã đáo thành công
Nhập tình nhập lý -> hợp tình hợp lý,
Tác uy tác phúc -> Tác oai tác quái,
An phận thủ kỹ -> An phận thủ thường,
Nhất bộ bình an -> Thượng lộ bình an,
Có khi chữ chỉ bị thay đổi vị trí để nói cho thuận miệng như “Xà khẩu Phật tâm” -> “Khẩu xà Tâm Phật” (Câu này đôi khi cũng dùng phản ý là “Khẩu Phật tâm xà”).

d. Thành-ngữ Hán được giản-tiện hóa:
Thương hải biến vi tang điền (bãi biền thành ruộng dâu, ý nói cuộc đời thay đổi) -> Dâu bể,
Xảo ngôn như lưu (= nói năng khéo léo như rót vào tai) -> Xảo ngôn,
Lang bạt kỳ hồ (= ngày đây mai đó) -> Lang bạt

e. Thành-ngữ Hán được nôm hóa:
Dĩ độc trị độc -> Lấy độc trị độc,
Nhất tiễn song điêu (= một mũi tên bắn hai con chim) -> Một công đôi chuyện.


1.3 Về mặt hình thức
Chữ ta đơn âm, đa thanh nên dân ta nói gì cũng phải có vần có điệu, có đối có đáp, có cân có xứng, nói phải thuận miệng, nghe phải thuận tai. Mọi thể loại trong văn-chương dân-gian đều có những tính cách này.

Có đối:
Dài lưng tốn vải,
Văn hay chữ tốt,
Mẹ tròn con vuông,
Môn đăng hộ đối,
Năm thê bảy thiếp,
Khôn nhà dại chợ,
Giơ cao đánh sẽ (= khẽ, nhẹ),
Vỏ quít dày, móng tay nhọn,
Lá lành đùm lá rách,
...
Chúng ta có thể để ý thấy có rất nhiều thành ngữ gồm 4 chữ, một phần vì lý do này.

Có vần:
Biết thì thưa thì thốt, không biết thì dựa cột mà nghe,
Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng,
Bỏ thì thương, vương thì tội,
Có thực mới vực được đạo,
Tiền mất tật mang,
Thua keo này bày keo khác,
Được ăn, được nói, được gói mang về,
Không mợ thì chợ vẫn đông,
Mất bò mới lo làm chuồng,
Miệng nam-mô, bụng bồ dao găm,
Thấy người sang bắt quàng làm họ,
...

Có vần, có đối:
Sai một li, đi một dặm,
Ăn theo thuở, ở theo thời,
Ăn trông nồi, ngồi trông hướng,
Của chồng công vợ,
Tay làm hàm nhai,
Ăn cơm có canh, tu hành có bạn,
Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm,
Sông có khúc, người có lúc,
...
Thành-ngữ không bắt buộc phải có đối, có vần nhưng thường hay có điệu, bao giờ nghe cũng nhịp nhàng, uyển chuyển dù không phải là những câu hoàn-chỉnh như tục-ngữ, ca dao. 
Cứ đọc thử:
Năm thê bảy thiếp, 
Đêm bảy ngày ba,
Ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh,
Vợ như rợ buộc chân, chồng như gông vào cổ,
Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng…

Nói cho thuận miệng, nghe cho thuận tai thì mới dễ truyền-khẩu được. Đây cũng là một đặc-trưng của văn-chương dân gian.

1.4 Những thành-ngữ tôi yêu
Đã là văn-chương truyền-khẩu nên tôi "học" thành-ngữ qua ông bà, bố mẹ, cô chú bác tôi, và dĩ nhiên là những từ-ngữ Bắc-Kỳ. Tôi thích dùng thành-ngữ nhưng phải nói có những thành-ngữ tôi rất thích vì tính cách gợi cảm hoặc hài-hước như:
Đi guốc trong bụng (đau chết đi được! ),
ba que xỏ lá,
khỉ ho cò gáy,
gàn sặc gàn sụa,
xấu đau xấu đớn, xấu tàn xấu tệ,
ế xưng ế xỉa,
nghèo rớt mồng tơi,
mê như điếu đổ (= mê như say thuốc lào, làm đổ cả điếu hút),
dốt đặc cán mai (mai là dụng cụ đào đất, có cán bằng gỗ tốt nên đặc),
loạn cào cào,
cả vú lấp miệng em (= dùng sức mạnh để lấn áp kẻ yếu),
năm thì mười hoạ (= hiếm lắm),
nằm trong chăn mới biết có rận,
điếc không sờ sấm (súng),
chưa thấy quan tài chưa đổ lệ,

Mặt khác, người Việt ta thích vui đùa nên hay sửa đổi lời một bài hát hay nói trẹo một tục-ngữ, thành-ngữ một cách hài hước. Thí dụ một vài "ranh ngôn" học được hoặc do tôi chế biến:
Đời là bể khổ… mà chúng sinh lại không biết bơi,
Có công mài sắt có ngày… mỏi tay,
Nghiêng nước đổ thùng,
... như hủ-tiếu thiếu nước lèo,
Nhân chi sơ, sờ tí mẹ,
Ăn cháu đá bác,
Có (đào) mới, nới (vợ) cũ,
Ăn trong nồi, ngồi trong hũ,
Đồng không mông quạnh -> Quần không đít quạnh,
Gậy bà đập lưng ông,
Giặc đến nhà, đàn bà cũng chạy,
Gần mực thì đen, gần kèn thì thổi,

Đối với người Việt-Nam, thành-ngữ quả nhiên là để:
Nói cho màu cho mè, nghe cho vui cho vẻ.


Đón đọc số sau:
Tiếng nước tôi: Văn-học dân gian (2) / Tục ngữ
Yên Hà, tháng 5, 2014

Tài-liệu tham-khảo:
Định-nghĩa trong Tập "Tục Ngữ, Thành Ngữ, Ca Dao và Dân Ca Việt Nam" của cụ Trần Ngọc Ngải, Chicago, Illinois, USA 1997

Bộ sưu tập "Tâm Hồn Mẹ Việt Nam" (NXB Văn Nghệ, 1994) - Lê Gia  

Thành-ngữ trong tiếng Việt (Hồng Huy - Vũ Ngọc Phan?)

Thành-ngữ Hán-Việt

Ca dao, Tục-ngữ




Fame (Thanh Tuyền)

Thanh Tuyền performing a 1980 Disco hit 


http://youtu.be/AbwtzaRbVXE

Enjoy.

Aline (Ngọc Phú)

Aline (Christophe)
Ngọc Phu trình bày
Thanh Tuyền đệm nhạc

http://youtu.be/1LZ6vw9Pw8I

Enjoy.