Phần 1 : Nhạc Việt-Nam
https://phu-tran.blogspot.com/2019/02/nhac-60-70-cua-toi-oan-ket.html
…
Phần 3 : Nhạc Pháp
Sau nhạc Việt-Nam và nhạc Anh-Mỹ, thân mời quí bạn thưởng-thức nhạc Pháp của tôi.
3.1 Nhạc Pháp những
năm 50
Bố tôi và hai chú tôi lúc trước học trường Albert Sarraut ở Hà-Nội nên
trong phần nhạc người lớn mà tôi được nghe lóm có cả loại nhạc Pháp.
Những bài
nhạc mà tôi được nghe đầu tiên không phải là nhạc của Christophe hay Françoise
Hardy mà là những bài của Tino Rossi mà bố tôi hay thường ê-a : Le plus beau Tango du monde (Bài Tango
tuyệt vời nhất đời là bài Tango mà anh đã được nhảy bên em) hay bài J’attendrai (Anh sẽ chờ… ngày đêm, anh sẽ
chờ mãi ngày em trở về).
Nơi đây, tôi phải mở ngoặc kép: Bố tôi còn rất thích
bài Chung Thuỷ của Văn Phụng: Anh sẽ chờ khi nào em về… khiến tôi
không khỏi tự hỏi hay là bố tôi vì ở trong nhà binh, không được đóng gần nhà nên đâm
ra nhớ vợ? Đóng ngoặc kép.
Bố tôi còn thích Edith Piaf với dĩ nhiên những bài như La vie en rose, Je ne regrette rien.
Hai ông chú tôi thì lại thích ca sĩ trẻ hơn và bao nhiêu bài của Dalida tôi đã
được nghe là từ hai ông này : Bambino,
Gondolier, Come prima, Itsi bitsi petit bikini, Les enfants du
Pirée, Le jour où la pluie viendra,…
Xem như vậy, bố mẹ và hai chú tôi đã đóng góp không ít vào sở thích âm-nhạc của
tôi.
Phân-tích một chút, đến giữa thập-niên 50, những nhạc sĩ
Pháp chịu nhiều ảnh-hưởng của Beaudelaire, Verlaine, Rimbaud,… những thi sĩ (thế-kỷ
19) chú trọng nhiều vào nhạc tính của ngôn-từ. Và cũng như nhạc tiền-chiến của
Việt-Nam mình, nhạc sĩ Pháp hay phổ nhạc từ thơ mấy thi sĩ trên hay sau này từ
Louis Aragon hay Jacques Prévert (tác giả của Les feuilles mortes - Autumn
leaves).
Trong thanh-nhạc thời này, ca từ đóng vai chính. Tôi xin tạm gọi là “Nhạc ca-từ”
để dễ phân-biệt với những thể-loại khác.
3.2 Nhạc Pháp những
năm 60-70
Đầu thập-niên 60, nhạc phổ-thông Pháp xem như có hai dòng nhạc:
“Nhạc ca-từ” vẫn thịnh-hành đối với giới trung-niên và một phong-trào mới đặc biệt dành cho đám choai choai (trong đó có tôi).
3.2.1 Nhạc Yé-Yé thập-niên 60
Cuối thập-niên 50, phong-trào Rock and Roll cũng đã bắt đầu lan tràn sang
Âu-Châu và từ năm 1961, nhạc Twist làm giới trẻ bên Pháp quay cuồng. Giới
Marketing bèn tạo nên một phong-trào ca sĩ trẻ dành cho thế-hệ trẻ Baby boomer (sinh sau Đệ nhị Thế-chiến),
dần dần mang tên Yé-Yé.
Từ Yé-Yé này xuất phát từ
«Yes», đọc trại thành «Yeah», các ca sĩ Rock hay Twist hay pha
thêm trong lúc hát mà những người dịch bài hát Mỹ ra tiếng Pháp biến thành
«Yé». Từ đó biến thành Yé-Yé.
Ca nhạc sĩ
Năm 1966, để mừng sinh-nhật bốn năm thành-lập của báo Salut les copains, biểu-hiệu cho phong-trào Yé-Yé, nhiếp-ảnh gia Jean Marie Périer đã chụp một tấm hình được gọi
là Photo du siècle (Tấm ảnh của thế-kỷ) quy-tụ gần hết các ca
nhạc sĩ tiêu-biểu của thời này làm poster cho trang giữa của tờ báo. Thuở đó, tôi cũng có một tấm ghim trên tường.
(Ngoài Salut les copains, báo Yé-Yé còn có Mademoiselle Age Tendre dành cho thiếu-nữ.)
Những nam ca nhạc sĩ Yé-Yé (Yé-Yé boys)
Chúng ta hãy bắt đầu với bộ ba đã đóng góp rất nhiều vào việc phổ-biến nhạc
Rock-Twist bên Pháp thời đó, và có lẽ vì vậy đã chọn những nghệ-danh nghe rất
Anh-Mỹ :
- Johnny Hallyday (tên thật là
Jean-Philippe Smet), mới mất tháng 12 năm ngoái (2017), là một trong những ca
sĩ Yé-Yé nổi tiếng nhất, với những bài đượm Rock,
Blues và với phong-cách trình-diễn trên sân-khấu. Anh còn được ví như Elvis Presley
của Pháp.
Bắt đầu thành công năm mười bảy tuổi với Souvenirs
souvenirs (dịch từ Souvenirs của
Cy Coben), Johnny đã lăng-xê nhạc
Twist bên Pháp với Viens danser le twist (Let’s twist again), và
nhanh chóng trở thành L’idole des jeunes
(Teenage idol của Ricky
Nelson).
Những bài hát nổi tiếng của Johnny thì nhiều vô số kể, phần lớn là dịch từ những
bài tiếng Mỹ (ảnh-hưởng Mỹ đến từ Lee Halliday là chồng một cô em họ).
Một vài bài : Bonne chance
(Charles Aznavour-Georges Garvarentz sáng tác để hát trong phim Cherchez l’idole), Le pénitencier (The house of
the rising sun), Pas cette chanson
(Don’t play that song), Quelque chose de Tennessee (Michel
Berger viết), Cheveux longs idées courtes
(để trả đũa Antoine đã hát Les
élucubrations d’Antoine), …
Tiếng tăm Johnny còn được củng cố bởi đám cưới với nữ ca sĩ Yé-Yé Syvie Vartan suốt mười lăm năm.
- Eddy Mitchell
(Claude Moine), cũng như người bạn Johnny, mê nhạc Rock và Gene Vincent, bắt đầu hát với ban nhạc Les
Chaussettes Noires (ban đầu là Les Cinq Rocks), ban nhạc Rock đầu tiên của
Pháp, nhưng chỉ được một năm trước khi anh ra hát riêng.
Vài bài với Les Chaussettes
Noires : Be Bop A Lula, Eddy sois
bon (Johnny B. Goode – Chuck
Berry), La leçon de twist, Chérie oh
chérie, Parce que tu sais, …
- Dick Rivers (tên thật là Hervé Forneri, nghệ-danh lấy từ nhân-vật
đóng bởi Elvis Presley trong phim Loving
you) là chàng ngự-lâm pháo-thủ thứ ba say mê
Gene Vincent, Elvis Presley và nhạc Rock của Mỹ.
Cũng như Eddy Mitchell, anh bắt đầu với ban nhạc Les Chats sauvages nhưng cũng chỉ được một năm rồi ra riêng.
Vài bài nổi tiếng là Est-ce que tu le
sais ? (What’d I say ?),
Twist à Saint Tropez, …
Nơi đây, chúng ta phải nhận-xét là trong thời-kỳ nhạc này, ca sĩ là chính yếu, ban nhạc chỉ là phụ-thuộc. Les Chaussettes Noires và Les Chats sauvages chỉ được biết đến qua Eddy Mitchell và Dick Rivers. Ngoài hai ban nhạc này, hầu như không có ban nhạc nào nổi tiếng.
Nhạc Pháp ít "giựt gân" và ca sĩ thường hát những thể-điệu nhẹ hơn Twist-Rock.
- Christophe (Daniel Bellivacqua, gốc Ý)
là một trong những ca sĩ tự viết nhạc cho mình. Anh bắt đầu nổi tiếng với bài
Aline (hơn một triệu đĩa bán), sau đó là Les
marionnettes, J'ai entendu la mer, Je ne t’aime plus, Excusez-moi Monsieur le
professeur, Je suis parti, La danse à trois temps,…
Bước sang thập-niên 70, tiếng tăm có chút xuống, Christophe phải đổi phong
cách, để râu và tóc dài và trở lại với Mal, Mes
Passagères, Oh mon Amour, Main dans la main, …
Rồi sự cộng-tác với
Jean-Michel Jarre giúp anh thay đổi loại nhạc với Les mots bleus, L’amour toujours l’amour, Les paradis perdus,…
Sau đó, anh vẫn tiếp tục viết nhạc và đi trình-diễn cho đến 2014.
Christophe quả là một trong những ca nhạc sĩ phong phú nhất của thế-hệ Yé-Yé, xem danh sách những bài hát của
anh mà chóng cả mặt. Ai đã hát tiếng Pháp thì không thể không hát Christophe.
- Salvatore Adamo là một ca nhạc sĩ khác, gốc Ý, sống bên Bỉ, rất thành công với những bài Tombe la neige (Tuyết rơi), La nuit, Mes
mains sur tes hanches, Une mèche de cheveux, Vous permettez Monsieur, Ton nom,
Viens ma brune và biết bao nhiêu bài khác.
Nhạc của anh nhẹ nhàng, đầy
thi tính và anh đã được « Giải quốc-tế thơ tiếng Pháp » (Grand prix
international de poésie francophone) cho toàn bộ những bài hát của anh.
- Hervé Vilard (tên thật René Villard=
RV, đọc lại là Hervé), lại một ca nhạc sĩ. Lúc mười chín tuổi, anh viết bài hát
nổi tiếng nhất của mình : Capri
c’est fini. Sau đó sẽ có Mourir ou
vivre, Fais la rire, Pedro, J’ai envie (de vivre avec toi), Ne te marie pas
Sophie, Il faut croire en demain, …
Các bà Fans của Hervé Vilard xin chớ
buồn vì anh này đã từng công bố tính đồng-tình luyến-ái của mình rồi.
- Richard Anthony (Ricardo Abraham Btesh
gốc Syria, đạo Do Thái, mất năm 2015) được biết đến với những
bài J’entends siffler le train (Five
hundred miles), Aranjuez mon amour, La
leçon de twist, Let’s twist again, …
- Claude François bắt đầu sự-nghiệp với Belles ! Belles ! Belles ! (Girls girls girls của Phil Everly - Everly Brothers). Biệt hiệu Cloclo, anh này rất được ưa chuộng nhờ loại nhạc,
phong cách hát và trình diễn độc nhất vô nhị, rất “bốc”, vừa hát vừa nhảy (ảnh
hưởng của Tina Turner), lại có kèm theo những vũ công sexy (Les Claudettes /
Clodettes, giống như những Ikettes của Ike & Tina Turner).
Những bài hits của anh : Pauvre petite fille riche, Si j’avais un
marteau (If I had a hammer - Pete Seeger), Donna, Donna, J’y pense et puis
j’oublie, Alexandrie Alexandra, Je sais, … và nhất là Comme d’habitude sáng tác chung với
Jacques Revaux và Gilles Thibaut. (Bài này Paul Anka viết lời tiếng Anh cho Frank Sinatra là My way, nổi tiếng toàn cầu.)
Năm 1978, trên đỉnh vinh quang, Claude François bị điện giựt trong phòng tắm và
chết… vô duyên.
- Antoine (Pierre Muraccioli) là một ca nhạc
sĩ “lập dị” (nổi tiếng với áo sơ-mi hoa), không giống ai : Kỹ sư Centrale,
một trong những trường lớn nhất Pháp, anh lại chỉ làm những nghề khác : viết
nhạc và hát (Bài đầu tiên, Les
élucubrations d’Antoine, chỉ nói nhăng nói cuội đúng như định nghĩa của chữ "élucubrations" nhưng lại rất thành công và những bài của anh nêu lên những vấn-đề
chính trị, xã-hội, tôn giáo,…). Ngoài ra, anh đóng phim, làm phim, chụp ảnh, chu du trên biển
từ đảo này sang đảo nọ cả mươi năm trời.
Nói tóm lại, anh đã sống cuộc đời hoàn toàn theo ý muốn của anh và ca nhạc chỉ là một
giai-đoạn ngắn trong đời.
- Jacques Dutronc, một ca nhạc sĩ khác
thường kiểu Antoine.
Nhạc của anh cũng là loại « tản mạn » trên trời dưới đất và nhịp điệu
cũng rất lạ nhưng lại rất thành-công: Et
moi, et moi et moi ; Les cactus ; J’aime les filles ; Il est
cinq heures, Paris s’éveille ; Les Play boys ; …
Anh còn là diễn viên trong 48 cuốn phim và đã được 6 giải Oscar.
Vợ anh là nữ ca sĩ Françoise Hardy nhưng chỉ được sáu
năm.
- Alain Barrière (Louis Bellec) kỹ sư
Arts et Métiers (trường rất nổi tiếng) chuyển hướng sang ngành âm-nhạc.
Ca nhạc sĩ này bắt đầu nổi tiếng với tác-phẩm đầu tay Elle était si jolie và sau đó Ma vie
sẽ là thành công lớn nhất của anh.
Những bài khác : Tu t’en vas
(hát chung với Noëlle Cordier), Emporte moi, Rien qu’un homme, A regarder la
mer, Alors adieu, Mon improbable amour, …
- Serge Gainbourg (tên thật Lucien
Ginsburg, gốc Do Thái) là một nghệ-sĩ có tài (ca nhạc sĩ chơi nhiều loại đàn,
hoạ sĩ, viết phim, quay phim, đóng phim) nhưng mặc cảm, truỵ lạc, thích khiêu
khích và gây tai tiếng hơn ai hết.
Nhạc anh thường nghĩa đôi và những bài nổi tiếng là : Je t’aime, moi non plus (hát chung với Jane Birkin, nàng thơ và bạn
đường anh suốt mươi năm), 69 année
érotique, Lemon incest, Je suis venu te dire que je m’en vais,
Ballade de Melody Nelson, La Javanaise, …
Serge Gainsbourg mất năm 1991 lúc 62 tuổi.
- Hugues Aufray (Hugues Auffray) là ca nhạc
sĩ chơi đàn ghi-ta. Nhạc anh ảnh hưởng Folk (anh hát lại khá nhiều nhạc của Bob
Dylan), khá lãng mạn và hay nói về hành trình, tình bạn, sự tôn-trọng, …
Tôi thích nhất những bài Céline,
Stewball, Santiano, …
- Michel Polnareff (gốc Nga) là một ca nhạc
sĩ có tài.
Những bài thành công của
anh là : La poupée qui fait non (đầu tay), Love me please love me, Âme
câline, Sous quelle étoile suis-je né ? Le bal des Laze, On ira tous au
paradis, Holidays,…
Nhưng giới truyền-thông không mấy thích anh vì tướng dạng và lối sống của anh.
Ai cũng nhớ hình ảnh một nghệ-sĩ tóc dài quăn nhuộm vàng và cặp kính đen viền
trắng thật to (anh cận thị rất nặng) và tấm bích-chương anh khoe mông (không dám đăng nơi đây).
- Enrico Macias (Gaston Ghrenassia, gốc
Algérie) : Nguồn nhạc Ả-Rập của anh cho chúng ta những điệu Rumba (La femme de mon ami, Enfants de tous pays, Adieu mon pays, Les gens du Nord, Solenzara...), Tango (L’amour c’est pour rien), và cả Valse (Paris tu m’as pris dans tes bras), … để hát dạ vũ tiếng Pháp.
Xin cảm ơn Enrico.
Còn những nam ca nhạc
sĩ khác tôi đã nghe như : Frank Alamo (Biche, ma biche), Pascal Danel (La plage aux romatiques,
Les neiges du Kilimandjaro), Lucky
Blondo (Sur ton visage une larme), Michel Berger (viết nhạc nhiều hơn là hát),...
Những nữ ca nhạc sĩ Yé-Yé (Yé-Yé Girls)
- Sylvie Vartan (Sylvie Georges
Vartanian, gốc Bulgaria-Armenia) là nữ ca sĩ thành công trong nghề, không phải
nhờ « răng hở » duyên dáng hay nhờ ông phu-quân là vua Rock Johnny
Hallyday, mà nhờ đường lối làm việc rất chuyên-nghiệp kiểu Mỹ, từ lối tổ-chức
show, phong-cách dàn cảnh hay trình-diễn, trên sân-khấu quốc-tế.
Bắt đầu nổi tiếng với Quand le film est
triste (Sad movies), cô còn rất nhiều bài mà fans của cô không thể không biết, không nhớ :
La plus belle pour aller danser (hát
trong phim Cherchez l’idole), Tous mes copains, En écoutant la pluie, L’homme
en noir, Le loco-motion, Il y a deux filles en moi, La Maritza, …
- Françoise Hardy đặc sắc ở điểm cô tự viết
nhạc-lời (không như các nữ ca sĩ khác chỉ biết hát) và những bài của cô phản ảnh tâm tính nhút nhát, hoài nghi của cô đối
với liên-hệ trai-gái. Nhạc của cô : Tous les garçons et les filles, Mon amie la rose, La
maison où j’ai grandi, Le temps de l’amour, Ton meilleur ami, J’suis d’accord, Ça
a raté, L’amour s’en va, Je n’suis là pour personne, …
Ngoài âm-nhạc, cô còn chuyên về khoa tử-vi.
- France Gall (Isabelle Gall : cô phải
đổi tên để khỏi trùng với nữ nghệ-sĩ Isabelle Aubret) thì chúng ta phải biết với
những bài nhạc phần đông viết bởi Serge Gainsbourg và Michel Berger : Ne sois pas si bête, N’écoute pas les
idoles, Laisse tomber les filles, Sacré Charlemagne, Poupée de cire poupée de
son, Les sucettes (bài này Gainsbourg viết có nghĩa đen nhưng cô không hiểu),
Samba mambo, Ella elle l’a (Berger viết
để vinh danh Ella Fitzgerald), …
Cô mất đầu năm 2018 (chồng cô là Michel Berger mất năm 1992).
- Sheila (Annie Chance) là nữ ca sĩ tôi
không thích nhất, không biết vì hai cái búi tóc của cô, vì giọng hát the thé hay
vì phong cách của cô ? Những bài của cô mà tôi đã phải nghe : L’école est finie, Pendant les vacances
(All I have to do is dream của Everly
Brothers), Ecoute ce disque, Bang
Bang (Bang Bang của Sony Bono, Cher
hát), …
- Tini Yong (Tôn
Nữ Thị Thiên Hương) là nữ ca sĩ Yé-Yé gốc Việt, nổi tiếng được vài năm dưới sự dìu dắt
của Henri Salvador với bài Tais toi, petite folle. Sau đó, cô trở lại nghề cũ
là tiệm ăn Á-Đông.
Nơi đây, chúng ta cũng phải nhắc đến chị Bạch
Yến cũng đã sống bên Pháp trong thời-kỳ này và đã được hãng Polydor mời
thâu đĩa. Chị cũng đã xuất-hiện trên chương-trình Ed Sullivan và trình-diễn trên
nhiều sân-khấu quốc-tế.
- Dalida (Iolanda Cristina Gigliotti, gốc Ý, sinh tại Cairo, Ai-Cập) từ thập-niên 50 đã tiếp tục cống hiến những bài hát bất hủ như Le jour le plus long, À qui?, Amor amor, Mamy Blue, Parle plus bas,
Paroles paroles (với giọng phụ-hoạ của Alain Delon), Besame mucho, J’attendrai, … một số bài đã được hát lại theo thể-điệu
Disco.
Năm 1987, cô tự tước lấy sự sống sau nhiều năm với bệnh trầm cảm. Bài hát “trăn trối” của cô là Mourir sur scène.
Có những nữ nghệ-sĩ
tôi ít nghe hay ít nổi tiếng hơn là Michelle
Torr đã một dạo sống chung với Christophe), Catherine Ribeiro, Chantal
Goya (sinh ở Sài-Gòn, vợ của Jean-Jacques Debout, chuyên hát những bài dành
cho trẻ em).
Trong thời này còn có một nữ ca sĩ có tuổi hơn mà thằng con trai mới lớn tôi thích (có lẽ vì cặp mắt rất liêu-trai của cô ?) là Marie Laforêt với những bài Mon amour, mon ami ; Viens sur la montagne ; Le vin de l’été (Summer wine); Les vendanges de lamour ; Viens, viens ; Je voudrais tant que tu comprennes ; Marie colère, Marie douceur ; …
Những cặp nghệ-sĩ Yé-Yé
Đôi khi Chàng Yé-Yé cặp với Nàng Yé-Yé (dù chỉ một thời gian) thì đôi ta lại càng nổi hơn. Đó là
trường hợp của:
Johnny - Sylvie ; Jacques Dutronc - Françoise Hardy ; Michel Berger - France Gall (cả hai đều
đã ra đi) ; Serge Gainsbourg - Jane Birkin ; Jean Jacques Debout - Chantal
Goya ; Stone - Charden (L’Avventura, Le
prix des allumettes) ; Christophe - Michelle Torr ; …
Vài nét so sánh nhạc Yé-Yé
Pháp với nhạc Pop Anh-Mỹ
Anh và Mỹ dùng chung
ngôn-ngữ và văn-hoá tương đối gần nhau nên nhạc Anh hay Mỹ lúc đó tôi cũng khó
mà phân biệt.
Ngược lại, ngôn-ngữ, văn-hoá, hệ-thống tư-tưởng Pháp thì khác hẳn cho
nên phong trào Yé-Yé vẫn giữ nhiều đặc-tính
của Pháp cho dù ảnh-hưởng nhạc Anh-Mỹ trên nhạc Yé-Yé không hẳn là ít, rất nhiều bài hát Pháp là dịch từ những bài Mỹ.
Nếu so sánh hai dòng nhạc thì :
- Nhạc Anh-Mỹ dựa rất nhiều trên những ban
nhạc (The Beatles, The Rolling Stones,...) tự viết và chơi nhạc của mình, tuy rằng
ca sĩ độc-lập không phải ít.
Như đã nói, ca
sĩ Yé-Yé là chính yếu và nhạc Yé-Yé ít chú trọng vào phần âm-nhạc.
Thẳng thắn mà nói, riêng về phần âm-nhạc, hoà âm và ban nhạc, nhạc Yé-Yé không mấy xuất-sắc so với Anh/Mỹ.
Một lý do khác có lẽ vì nhạc Yé-Yé nhằm mục-đích Marketing nhắm vào giới trẻ nên ít chú-trọng phương-diện nghệ-thuật
(?)
- Các thể-loại nhạc Anh-Mỹ rất
phong-phú (Rock, Folk, Country, Jazz, Blues, Soul,… chưa kể những thể loại hỗn-hợp) trong khi nhạc Yé-Yé hầu
như không có nhiều thể-loại. Đi hát nhạc Pháp mà phải chơi phần dạ vũ thì thật ít lựa chọn lắm.
Có lẽ vì, như đã nói trong phần nhạc thập-niên 50, truyền-thống nhạc Pháp chú-trọng nhiều phần ca từ (?)
Một lý do khác : chúng ta cũng phải hiểu rằng người Pháp nói chung không dễ hoà-nhập vào văn-hoá mình những
phần « ngoại lai ». Vài thí-dụ : ngôn-ngữ Pháp ít dùng những từ
không xuất-phát từ gốc La-Tinh trong khi khoảng 30% từ-vựng Anh đến từ tiếng
Pháp ; lễ Halloween của Mỹ cũng đã thất-bại trong việc xâm-nhập vào Pháp, …(?)
Ngoài nhạc Yé-Yé ra, trong số sau, chúng ta sẽ nói đến những loại nhạc và những ca sĩ phổ thông khác thời bấy giờ, và nhất là dòng nhạc mà tôi tạm gọi là nhạc ca-từ.
https://phu-tran.blogspot.com/2019/02/nhac-60-70-cua-toi-oan-ket.html
Yên Hà, tháng 12, 2018
Tài-liệu nguồn:
Wikipedia