ARTSHARE

Aug 21, 2013

Tiếng nước tôi: Từ vựng


Từ-vựng là cái vốn chữ, kho từ-vựng của một người là tập hợp các từ trong một ngôn ngữ mà người đó biết đến và sử-dụng.
Vốn từ-vựng là phương-tiện cơ-bản và hữu-dụng trong giao-tiếp và thu nhận kiến-thức. 
Muốn phát biểu tâm-ý mình một cách chính xác, ta cần nắm vững cái vốn chữ của mình, đối với bất cứ ngôn-ngữ nào cũng vậy. 
Tiếng Mỹ thì đối với tôi đã quá muộn, nhưng cái kho-tàng chữ Việt của tôi thì tôi lại muốn gìn-giữ và phát triển, vì tư-tưởng và ngôn-ngữ là những điều không ai có thể tước đoạt của tôi được.

1. Nguồn-gốc từ-vựng Việt-Nam

Ngôn-ngữ đi đôi với lịch-sử và không ai sẽ ngạc-nhiên khi biết rằng kho chữ của ta gồm có những chữ thuần Việt (Nôm), những chữ Hán-Việt (di-tích của 1000 năm thống-trị), những chữ gốc Pháp (di-tích của 80 năm đô-hộ), và những chữ khác (Anh, Đức...).
1.1 Từ thuần Việt
Từ thuần Việt là cốt lõi, cái gốc của từ-vựng tiếng Việt. Những từ thuần Việt này thường là bộ phận gốc của từ-vựng tiếng Việt, biểu thị các sự vật, hiện tượng, khái niệm cơ bản nhất và tồn-tại từ rất lâu. 
Nếu so sánh các từ trong phần thuần Việt này với các từ tương-ứng trong tiếng Mường, các tiếng Tày-Thái, Môn-Khơme, người ta thấy chúng có sự giống nhau nhất định về ngữ-âm và ngữ-nghĩa. 

Tương ứng Việt-Mường: vợ, chồng, ông, ăn, uống, cười, bơi, nằm, khát, trốn, gáy, mỏ, mâm, rá, chum, nồi, vại, váy, cơm, cây, củ, rạ, mây, cau, cỏ, gà, trứng...

Tương ứng Việt – Tày Thái: đường, rẫy, bắt, bóc, buộc, ngắt, gọt, đẵn, bánh, vắng, mo, ngọn, mọn, méo, vải, mưa, đồng, móc, nụ, gà, chuột, đâm...

Tương ứng với các ngôn ngữ nhóm Việt Mường đồng thời với nhóm Bru-Vân Kiều: trời, trăng, đêm, bụng, ruột, kéo, bốc, ngáy, khạc, củi, hột, rắn, khô...

Tương ứng với nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer ở Tây Nguyên Việt Nam: trời, mây, mưa, sấm, sét, bàn chân, đầu gối, da, óc, thịt, mỡ, bố, mẹ, mày, nó, nuốt, cắn, nói, kêu, còi, mặc, nhắm, bếp, chổi, đọi...

Tương ứng với nhóm Việt-Mường và các ngôn ngữ Mon-Khmer khác: sao, gió, sông, đất, nước, lửa, đá, người, tóc, mặt, mắt, mũi, răng, lưỡi, cổ, lưng, tay, chân, máu, xương, cằm, đít, con, cháu...

Tương ứng với nhóm Việt Mường và Tày Thái: bão, bể, bát, dao, gạo, ngà voi, than, phân, cày, đen, gạo, giặt...

Tương ứng Việt – Indonesia: bố, ba, bu, mẹ, bác, ông, cụ, đất, trâu, sông, cái, cây, núi, đồng, mất, nghe, đèn, đêm, trắng, tuổi, ăn, cướp, bướm, sáng, rất, nấu, này/ni, là, rằng, ngày...

Được sử-dụng nhiều trong sinh-hoạt hàng ngày nên từ ngữ tiếng Việt thường có đặc-điểm của từ-ngữ giao-tiếp đơn-giản. Điều đó làm cho chúng không thể dùng để biểu thị các sắc-thái nghĩa trang-trọng hay khái-quát. Tiếng Việt vay mượn một số từ-ngữ ngoại lai khác, đặc biệt là tiếng Hán, có nghĩa cơ-bản giống với từ tiếng Việt nhưng được bổ sung thêm một sắc-thái nghĩa khác.


1.2 Từ Hán-Việt

Từ Hán-Việt là từ-vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung-Quốc nhưng đọc theo âm Việt. (Người Hàn và người Nhật cũng đã mượn chữ Hán một cách quy-mô).
Sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán bắt đầu khi nhà Hán của Trung Quốc xâm chiếm nước Việt. Quá-trình tiếp xúc lâu dài đã đưa vào tiếng Việt một khối-lượng từ ngữ rất lớn của tiếng Hán (khoảng hơn 60% số từ của tiếng Việt, theo các nhà nghiên cứu).
Tuy nhiên, các từ tiếng Hán khi đi vào tiếng Việt đã được Việt hóa về cách đọc cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt và với người Việt Nam. Đó gọi là cách đọc Hán-Việt.

Có những chủ-trương nên dùng chữ Hán-Việt trong các trường hợp dưới đây:
– Để tỏ lòng kính trọng, như trong các xưng danh, ta gọi “người quá cố” thay cho “người đã chết”, “nhạc phụ (mẫu)” thay cho “cha (mẹ) vợ” khi ta nói trước đám đông.
– Để tránh những hình ảnh sống sượng hay ghê tởm: giao hoan (làm tình), xuất huyết (chảy máu), hoại thư (thối thịt), đại tiện (đi ỉa), v.v.
– Làm ngắn gọn một câu dài: vô song (không ai sánh được), khả thi (có thể làm được), tòng phạm (kẻ hùa theo cùng làm ác), tư cách (cách cư xử riêng của một người),…
– Dùng trong chuyên môn để không lẫn lộn với đời thường, như trong ngành xây dựng gọi “trắc địa” thay vì “đo đất”; trong vật lý, “quán tính” chỉ “sức ỳ” của vật, “mã lực” là đơn vị đo lực chứ không là “sức ngựa”; trong báo chí, “tốc ký” là một phương pháp “viết nhanh”; trong ngoại giao, hai quốc gia “đối thoại” với nhau chứ không “nói chuyện”, trong tôn giáo, “tịnh xá” của tu sĩ không thể gọi là “nhà yên (lặng)”, v.v…
– Cách xưng hô của những nhân vật thời cổ. Dù ta không biết những người thời xưa gọi nhau như thế nào, nhưng để tạo không khí cổ kính cho câu chuyện, ta cần dùng những xưng danh Hán-Việt như: huynh đài, các hạ, tiểu thư, phu nhân, ...

Một nhận xét cũng đáng để ý là chữ Hán-Việt thường ít cụ thể hơn chữ Nôm, nhưng nhờ vậy mà chữ Hán-Việt mang cho ta một cảm giác lãng đãng, mênh mang. 
Thí dụ: những chữ “thuyền viễn xứ”, “khách tha phương”, người “đồng hương”, lời “ly biệt” cho ta cái cảm giác bàng bạc, dạt dào mà sẽ không thể có nếu dùng chữ thuần Việt tương đương là “thuyền xa x”, “khách xa nhà”, người “cùng quê”, lời “chia tay”.

Từ vựng Hán-Việt đã góp phần làm phong phú vốn từ của tiếng Việt, phần thì bổ túc cho những từ ngữ không có trong có trong tiếng Việt, ngoài ra gia tăng ngữ nghĩa thêm tinh tế cho dù có sẵn những chữ thuần Việt song hành. Ngày nay, khi muốn sử dụng một thuật-ngữ mới, người ta đều có xu hướng dùng từ Hán-Việt như: "lập trình", "vi mạch", "Wiki hóa"..., cũng như tiếng Pháp sẽ dùng gốc La Tinh hay Hy-Lạp để đặt chữ mới.

1.3 Từ gốc Tây phương
Kể từ khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng đáng kể đến tiếng Việt và các từ-ngữ gốc Pháp thâm-nhập khá nhiều vào tiếng Việt. Sự ảnh hưởng này là do tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ nhà nước và trong giảng dạy ở nhà trường, cũng như trong các loại sách báo khác. 
Ảnh hưởng này kéo theo sự xuất hiện của nhiều từ gốc Pháp trong nhiều lĩnh vực khác nhau như:
Tên món ăn: bít-tết (bifteck), kem (crème), phó-mát (fromage), rượu vang (vin), ...
Tên quần áo: may ô (maillot), si líp (slip), sơ-mi (chemise), len (laine), ...
Tên thuốc: canxi (calcium), vitamin, pênixilin, ...
Thuật ngữ hành chánh: loong toong (planton), buya rô (bureau), công táp (comptable)...
Thuật ngữ quân sự: lô-cốt (blockhaus), đoan (douanes), com măng đô (commando),...
Thuật ngữ âm nhạc: tăng-gô (tango), ácmônica, viôlông, tông (ton),...
Thuật ngữ khoa học kỹ thuật: bê-tông (béton), cao su (caoutchouc), mỏ-lết (molette)...

Đồng thời một số từ tiếng Anh, tiếng Đức cũng du nhập vào tiếng Việt, ví dụ như: mít tinh (meeting), boong ke (bunker),...
Ngoài ra, ảnh hưởng của Nga cũng dẫn đến sự du nhập của một số từ gốc Nga như:  bônsêvích (bolchevich), Xô Viết,...

Thời gian gần đây, do xu-thế hội-nhập toàn cầu, tiếng Anh gần như trở thành một ngôn-ngữ ngoại-giao quốc tế chính-thức, xu-hướng tiếp nhận trực tiếp ngôn-ngữ ngày càng trở nên phổ biến. Ví dụ: in-tơ-nét (internet), ma-két-tinh (marketing); sô (show),… 

1.4 Từ hỗn-chủng

Từ hỗn-chủng là từ sử-dụng hỗn hợp của 3 loại trên.
Ví dụ: vôi hoá: "vôi" là thuần Việt, "hoá" là Hán-Việt;
          ôm kế (ohmètre : máy đo đơn-vị điện Ohm): "ôm" là từ ngoại lai (Ohm), "kế" là
          Hán-Việt;

          nhà băng: "nhà" là thuần Việt, "băng" là từ gốc Pháp (banque).

2. Ngôn-ngữ thực dụng
Chúng ta sử-dụng một ngôn-ngữ để nói với người khác, nghe (và hiểu) người khác nói, viết (thơ, điện thơ, mẫu đơn...), đọc (báo chí, thơ, văn tự, ...).
Từ-vựng còn tuỳ thuộc người nói, tuỳ thuộc nơi chốn, tuỳ thuộc phạm vi giao tiếp...
2.1 Từ địa-phương (Phương ngữ)
Ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống của từng địa-phương khác nhau về kinh-tế, văn-hoá sẽ khác nhau. Ở Việt Nam chủ yếu có ba vùng phương ngữ chính: phương ngữ Bắc (Bắc bộ), phương ngữ Trung (Bắc Trung Bộ), phương ngữ Nam (Nam Trung bộ và Nam bộ). 
Các phương ngữ này khác nhau chủ yếu ở ngữ-âm, rồi đến từ-vựng, cuối cùng là một chút khác biệt ngữ-pháp. Sự khác biệt về ngữ-âm là nhiều nhất, nhưng có thể đoán được. Sự khác biệt về từ vựng có thể dẫn đến sự hiểu lầm nhiều nhất.
Chúng ta thử so sánh một số từ Bắc / Trung / Nam:
   này / ni, nì / nầy ; ấy / nớ, tê / đó ; thế / rứa / vậy
   quả / trấy / trái ; dứa / dứa / thơm, khóm ; củ đậu / củ độ / củ sắn /
   dọc mùng / môn ngọt / bạc hà ; tào phớ / đậu pha / tàu hủ non ; 
   nem rán / ram / chả giò ;  mũ / mạo / nón ; tất / tất / vớ ; chăn / chăn / mền ; ...
Chúng ta để ý thấy tự-vựng Bắc và Trung có phần giống nhau nhiều hơn là Nam.

Phân-tích Nam-Bắc thì ta nhận thấy có những tổ-hợp song âm nhưng tiếng Nam chọn yếu tố thứ nhất còn tiếng Bắc chọn yếu tố thứ hai. Thí dụ: dơ bẩn, đau ốm, lời lãi, bao bọc, mai mối, hư hỏng, dư thừa, kêu gọi, sợ hãi, hình ảnh, la mắng, bồng bế, …
Còn đây là những tổ-hợp ngược lại, người miền Bắc chọn yếu tố đầu, người miền Nam chọn yếu tố sau. Thí dụ: thóc lúa, giẫm đạp, đón rước, lừa gạt, sắc bén, lau chùi, thứ hạng, chăn mền, chậm trễ, tìm kiếm, vâng dạ, đùa giỡn, thuê mướn, mau lẹ, hung dữ, trêu chọc...


Phương ngữ vùng nào tất nhiên được người dân vùng đó dùng để giao tiếp. Tuy nhiên phương ngữ miền Bắc được dùng nhiều trong các đài thông-tin đại-chúng như đài truyền hình ... Tuy nhiên, ngày càng có xu hướng nhiều chương trình bắt đầu có người điều-khiển chương-trình dùng phương ngữ miền Nam, nhưng vẫn chiếm tỉ-lệ thấp trong khi phương ngữ miền Trung hầu như vắng bóng.


Gần đây khi giao-thông vận-tải, truyền hình, phim ảnh và Internet phát triển, nhìn chung người ngoài Bắc và trong Nam có xu-hướng dễ hiểu nhau hơn, ở một mức độ nào đó có ảnh-hưởng lẫn nhau. Ví dụ: ngoài Bắc cũng dùng từ "nhậu, dzô" hoặc trong Nam cũng dùng từ "vào" trong bóng đá hoặc từ bác xưng hô trên internet nhiều hơn.


2.2 Từ ngữ nghề nghiệp
Từ-ngữ chuyên môn trong tiếng Việt là những từ-ngữ sử-dụng hạn chế trong một nghề nào đó của xã hội, những người không trong nghề có thể ít biết hoặc không biết. Ví dụ: 
- Nghề nông có các từ ngữ: cày vỡ, cày ải, bón lót, bón đón đòng, bón thúc, gieo thẳng, gieo vại, lúa chia vè, lúa đứng cái, lúa von,...
- Nghề làm muối An Hoà dùng đến 80 từ-ngữ liên quan để chỉ những công-cụ sản xuất, những thao tác nghề nghiệp, những vật liệu, những sản phẩm, phương tiện di chuyển...

Ngoài ra trong tiếng Việt còn có nhiều thành-ngữ, tục-ngữ thể hiện kinh-nghiệm, cách thức làm việc,... trong nghề nào đó. Ví dụ trong nghề mộc có các câu: mộc gia nề giảm, cắt cưa đóng đanh,...

2.3 Thuật-ngữ
Thuật-ngữ trong tiếng Việt bao gồm những từ-ngữ là tên gọi chính xác của các khái-niệm và đối-tượng sử dụng giới hạn trong một lĩnh-vực chuyên môn của con người. Ví dụ: 
- trong Toán học có các thuật ngữ: đạo hàm, tích phân, vi phân,... 
- trong ngữ-âm học có các thuật ngữ: âm vị, âm tiết, nguyên âm..., 
- trong âm-nhạc, có những chữ như bát độ, tiết tấu, cao độ, dấu hoá, phách, ...
Đặc điểm cơ bản của thuật ngữ là chính xác, có hệ thống, và giá-trị quốc tế.
Lẽ tự-nhiên, từ-ngữ nghề-nghiệp và thuật-ngữ chỉ được sử-dụng rất hạn chế bởi một số người chuyên môn.

2.4 Từ lóng
Tiếng lóng (slang / argot) là một hình-thức phương-ngữ xã-hội không chính-thức của một ngôn-ngữ, thường được sử dụng trong giao-tiếp thường ngày, bởi một nhóm người. Tiếng lóng ban đầu xuất hiện nhằm mục đích che giấu ý nghĩa diễn đạt theo quy ước, chỉ những người bên trong mới hiểu. Khác với những từ-vựng nói trên, tiếng lóng thường không mang ý nghĩa trực tiếp, nghĩa đen của từ phát ra mà mang ý nghĩa tượng trưng, nghĩa bóng. 

Từ lóng trong Việt ngữ được sử dụng bởi nhiều thành phần xã hội. Những từ mang nghĩa tục tĩu được học sinh, sinh viên, dân chợ búa, nông thôn, xóm lao động nghèo dùng nhiều nhất. Những từ nhẹ nhàng thay thế cho các vấn đề tế-nhị thì được dùng ở ngữ-cảnh lịch sự, hoặc trong cộng đồng trí-thức. Những từ còn lại dùng trong các ngữ-cảnh gia đình, giữa bạn bè, đồng nghiệp, ở hàng quán,...
Đặc trưng nhất là giới trẻ thanh-thiếu niên ở bất cứ nơi nào và bất cứ thời-đại nào. Yếu tố tâm-lý là trong cái tuổi chuyển-tiếp từ "trẻ con" sang "người lớn" đó, họ cần khác người (lớn) và họp nhau để "chống" lại uy-thế của người lớn.
Bên Pháp, một dạo đã có phong trào nói "verlan" là nói hay viết ngược lại (verlan = à l'envers = ngược). Thí dụ: meuf = đàn bà (= femme viết ngược thành chữ meuf); ripou = thối nát, dởm (pourri nói ngược); ...
Còn có phong trào "texto" (đọc sao viết vậy, bất chấp chính tả) để đánh "text" trên máy điện thoại di-động cho nhanh.

Thông thường, tiếng lóng chỉ được sử-dụng dưới dạng văn nói, chứ ít khi được sử-dụng vào văn viết (trừ texto), đặc biệt là trong ngôn-ngữ văn bản trang-trọng thì người ta thường hạn-chế không dùng tiếng lóng.
Tuy nhiên, một loại tiếng lóng đặc biệt là mật mã, được dùng khá nhiều trong công-tác tình báo, gián điệp và phản gián với đặc-trưng che giấu ý nghĩa, chỉ cho những người đã biết quy-định giải mã rồi mới đọc và hiểu được.

2.5 Từ-vựng nói và viết

Ngôn ngữ giao tiếp của con người tồn tại dưới hai dạng cơ bản là nói và viết, nhưng thật ra trong nội dung, người ta muốn phân biệt giữa một bên là ngôn-ngữ thông tục, “đời thường”, chưa có sự gia-công, trau giồi, ít gắn với những chuẩn-mực nguyên-tắc; còn một bên là ngôn-ngữ được trau giồi, chọn lọc, gắn liền với những chuẩn-tắc đó.
Từ ngữ nói (khẩu ngữ)
Về mặt cấu trúc hình thức, các từ ngữ thuộc loại này khi trong phạm-vi giao tiếp, ít nhiều có thể “tự do, phóng túng” nếu điều kiện cho phép. Nói cách khác, chúng có thể biến đổi nhiều cấu trúc vốn có của mình. 
Khi nói, chúng ta có thể dùng những từ ngữ có sắc thái đánh giá cực đại (gọi là những danh-từ "dao to, búa lớn") để nhấn mạnh thêm, để lôi cuốn sự chú ý của người nghe. Ví dụ: lo thắt ruột, chờ đỏ mắt, đánh sặc tiết, chạy bở hơi tai, cứng họng, ...
Cũng có những lối xưng hô thân mật (mày, tao, cậu, tớ, mình, ...) hoặc đậm màu sắc, bày tỏ thái độ (ăn thua gì, ăn vàng ăn bạc gì, biết tay, phải lòng, cực kỳ,...)

Chúng ta cũng hay dùng các quán ngữ, thành ngữ để đưa đẩy, rào đón, hoặc diễn đạt cho sinh động hơn. Ví dụ: của đáng tội, có đời thuở nhà ai, thôi thì...
Một người thất-học không biết viết cũng có cái vốn chữ của mình để giao-tiếp trong đời sống hàng ngày. Dầu thế nào đi nữa thì cũng phải khẳng định lại rằng tính thông tục của khẩu ngữ nói chung và từ vựng khẩu ngữ nói riêng, không phải là sự nói tục và các từ tục. Đặc tính của khẩu-ngữ là giản-tiện, dễ hiểu, đi thẳng vào cảm xúc người nghe.

Từ ngữ viết
Những từ ngữ này chủ yếu dùng trong sách vở, văn bản, báo chí. Đó cũng là loại từ ngữ được chọn lọc, được trau dồi, được “văn hoá hoá” và gắn bó với chuẩn-tắc nghiêm-ngặt.
Từ ngữ viết thường gồm các thuật-ngữ, các từ-ngữ chuyên môn (văn hoá, văn học nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, chính trị, quân sự, hành chính, pháp luật, kinh tế,...) và nói chung, cấu-trúc hình-thức của chúng là có hệ thống và theo chuẩn-mực chặt chẽ.
Về mặt nội-dung ý nghĩa, các từ ngữ này, nói chung, mang tính khái-quát, trừu-tượng hoặc gợi cảm, hình tượng,... tuỳ theo mỗi phạm vi.
Về mặt nguồn gốc, thì phần nhiều là các từ gốc Hán và gốc Ấn-Âu được du-nhập.

Phân loại vậy thôi chứ ranh giới "viết-nói" không phân-minh lắm và phần lớn các từ-ngữ đều được dùng trong mọi phong cách. Từ-vụng được dùng tuỳ theo người nói, người nghe, người viết, người đọc, tuỳ theo môi-giới. Thí dụ: trong một gia-đình "quí phái" hay trong những nơi "cao cấp" (ban Giám Đốc, nội-các Chính-phủ...), các thành viên không thể phát-ngôn "tự do" được, mỗi từ ngữ phải được chọn lọc kỹ càng và theo phép tắc của mỗi giới. 
Ngược lại, trong một khoá học, huấn-luyện viên thường đơn-giản hoá cách giảng dạy để bù lại sự khô-khan của các thuật-ngữ và để các khoá sinh dễ hấp thụ hơn.

3. Ngôn-ngữ phát-triển
So với một ngôn-ngữ chết (langue morte) như chữ La-Tinh, đặc-tính của một ngôn-ngữ "sống" (langue vivante) là biến đổi, phát triển theo thời-gian để thích-nghi với những biến-hoá của thời-điểm.
3.1 Từ ngữ cổ và từ ngữ lịch-sử
Những từ vựng "lỗi thời" có thể chia ra hai loại: từ ngữ cổ và từ ngữ lịch-sử. 
Từ ngữ cổ là những từ ngữ đã biến mất khỏi ngôn-ngữ hiện-đại hoặc vẫn còn dấu vết trong tiếng Việt hiện-đại nhưng ý nghĩa đã bị lu mờ và không còn được dùng độc lập. Ví dụ: trong Túi đã không tiền khôn chác rượu (Quốc Âm thi tập) thì chác là mua, khôn là khó...; hoặc như trong Thúc Loan dẻ thằng bé con (Thiên nam ngữ lục) thì dẻ có nghĩa là khinh dẻ...
Khác với từ ngữ cổ, từ ngữ lịch-sử không có các từ ngữ đồng nghĩa trong tiếng Việt hiện đại, tuy nhiên khi cần diễn đạt khác khái niệm mang tính chất lịch sử, người ta vẫn phải sử dụng đến chúng. Ví dụ như tên gọi các chức, tước, phẩm, hàm thời phong kiến: án sát, lãnh binh, tuần phủ,.., những chữ thời vua chúa: ngự uyển, cung phi, thái-giám,... hay các hình thức thi cử: cử nhân, hoàng giáp, trạng nguyên,...

3.2 Từ ngữ mới
Các từ ngữ mới thường xuất hiện để bù đắp những thiếu hụt, không thoả mãn, không phù hợp với nhu-cầu định danh các sự vật, hiện tượng trong đời sống và trong thế giới của con người. Đôi khi, chúng cũng xuất hiện một phần bởi trào-lưu trong cách định danh, muốn dành cho sự vật một tên gọi mới hơn dù nó đã có tên gọi rồi.
Đa số các từ ngữ mới trong tiếng Việt đều xuất phát từ các ngành khoa-học tự nhiên và xã-hội. Ví dụ: bộ nhớ, bộ vi xử lý, hệ điều hành, cổ phiếu, sàn giao dịch,...

Ngày hôm nay, giá như tôi có trở lại Việt-Nam, có lẽ tôi sẽ phải cần một thông-dịch viên vì tiếng Việt hiện-đại đã thay đổi quá nhiều. 

(Xin mời đọc lại bài "Tiếng Việt mới" 
http://phu-tran.blogspot.com/2012/05/tieng-viet-moi-truyen-vui-ma-buon.html )

Nói về tiếng Việt tiến hoá, tôi chỉ có vài suy nghĩ:

- Những chữ cần có mà chưa có thì dĩ nhiên phải đặt ra chữ mới mà dùng. Đây là trường-hợp những từ-ngữ nghề-nghiệp và thuật ngữ thời nào cũng đã có.
Thời buổi này có Internet thì phải đặt ra những chữ vi-tính (computer), điện thư (email), cập nhật (update)... Tôi chỉ cảm thấy những chữ như phần mềm, phần cứng (hardware, software) có lẽ dùng để nói chuyện tiếu-lâm sẽ hay hơn. Người Pháp cũng đã phải dịch những chữ đó nhưng đã chọn matériel và logiciel, chứ không dịch sát nghĩa thành "partie dure" và "partie molle". Tôi xin đề-nghị "phần máy" và "phần xám" (?)

- Tiếng lóng là một hiện-tượng xã-hội phản-ảnh mỗi thời-điểm và tôi không có gì để khen hay chê. Thuở trước, chúng ta cũng đã dùng những chữ sức mấy, bắt địa, bắt bò lạc, xế hộp, hết sẩy, ... thì bây giờ cũng có những tiếng lóng như chảnh (kênh kiệu), vô tư (thoải mái), phơ (phê), rước (mua về), lác (ba xạo, khoác lác), ... Chuyện thường mà.


- Những chữ "mới" đem từ ngoài Bắc vào Nam thuộc trường-hợp từ-ngữ địa-phương, đem thêm vào phần phong-phú cho ngôn-ngữ ta. Điều này cũng tốt thôi.

-  Những chữ mới để thay thế những chữ đã có thì cũng nên đem lại chút gì rõ ràng hơn, văn hoa hơn, hữu ích hơn. Những chữ như "cà-phê cái nồi ngồi trên cái cốc" để nói cà-phê phin, "tàu mẹ chở tàu con" thay vì hàng-không mẫu-hạm, "đồng hồ không người lái" thay vì đồng-hộ tự-động, "tai biến mạch máu não" thay vì đứt gân máu,... chỉ có thể làm tôi cười mếu.
Còn những chữ như chiến sĩ cái (thay vì nữ quân-nhân), bú mồm (thay vì hôn môi), xưởng đẻ (thay cho viện bảo sinh) hay nhà ỉa (thay cho cầu tiêu, nhà xí) thì đối với riêng tôi tht là một sỉ-nhục cho một ngôn-ngữ trong sáng mà tôi vẫn thường hãnh-diện.

4. Kết-luận

Từ-vựng là cái vốn chữ của chúng ta, thuộc kho-tàng văn-hoá của chúng ta, được gầy-dựng và vun trồng qua mấy ngàn năm qua, để lại cho chúng ta một ngôn-ngữ phong phú, trong sáng, linh động, phức-tạp, đa dạng và tuyệt vời.
Mong sao chúng ta có thể giữ mãi được gia-sản quí báu này.

Yên Hà, tháng 8, 2013

Tài-liệu nguồn:

Từ vựng tiếng Việt 


Từ vựng
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%AB_v%E1%BB%B1ng

Tản mạn chuyện chữ Hán-Việt (Ngũ Phương)

Tiếng lóng

http://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng_l%C3%B3ng

Tiếng lóng mới ở Việt Nam. Nguồn: thanhda.com


Sự xuất hiện các từ ngữ mới - Cơ sở ngôn-ngữ học và tiếng Việt (Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến)

http://ngonngu.net/?p=179

Phân lớp từ ngữ theo phong cách sử dụng - Cơ sở ngôn-ngữ học và tiếng Việt (Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến)


Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh


Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh

Người xưa trọng nghề vì nghề nuôi sống được thợ. Có nghề là đời sống được bảo đảm. Tay nghề giỏi là thân được sướng và có chuyên tâm vào công việc thì mới mong thành công. 
Còn những câu thành ngữ quen thuộc khác cũng mang ý nghĩ trên:
"M
ột nghề thì sống, đống nghề thì chết"

hay "Trăm hay không bằng tay quen": có giỏi cũng phải thực tập mới được.
Tiếng Mỹ còn có câu "Jack of all trades, master of no one" (= cái gì cũng làm thì không giỏi cái gì được).

Rõ ràng là người xưa chỉ lo sao có được cái nghề để lo miếng cơm, manh áo, nuôi thân, nuôi gia-đình, vợ con.

Nhìn xa hơn chút thì quả nhiên tất cả những danh-nhân đều là những chuyên-gia đã thành công trong địa-hạt của mình: khoa-học, chính-trị, âm-nhạc, thể-thao...
Và ngay cả trong cùng một ngành cũng nên chuyên vào một bộ môn: bác sĩ thì le lắm rồi nhưng nếu nha-sĩ hay bác-sĩ mắt, hay chuyên hẳn về ung thư não chẳng hạn thì lại càng bảo-đảm. Càng chuyên-môn càng "ăn tiền", nghĩa bóng cũng như nghĩa đen.

Một võ sĩ cần có một tuyệt-chiêu để tác oai, tác quái (đừng quên Vương Trùng Dương đã trở thành Võ lâm chí tôn nhờ công phu Nhất Dương Chỉ); một kiếm sĩ cần có một nhát bí-mật (botte secrète); ca sĩ phải có ít nhất một bài tủ làm ký-hiệu (Chiều mưa biên-giới của quái-kiệt Trần Văn Trạch, Đêm đông của nữ ca-sĩ Bạch Yến, Riêng một góc trời của Tuấn Ngọc, ...).

Nhất là trong những ngành nghệ-thuật, hay dở là chuyện khó khẳng-định nhưng có được một phong cách (style) riêng-biệt mới là điều cần.
Chúng ta ai cũng biết đến "hệ-thống danh-nhân" (celebrity system) của Mỹ: làm gì thì làm, miễn sao nổi-tiếng thì đi đâu cũng lọt, làm gì cũng dễ thành-công.
Một thí-dụ điển-hình của địa-vị "celebutante" (nổi-tiếng không phải vì tài) là cô Paris Hilton, chắt của thành-lập viên nhóm khách-sạn HILTON: nhờ con nhà giàu và nhờ một cuốn băng video nóng bỏng tung lên Mạng, cô đã trở thành rất nổi-tiếng để sau đó trở thành diễn-viên, ca sĩ, văn sĩ, 
doanh nhân, ... và tỉ-phú.


Nhất nghệ tinh không chỉ áp-dụng nơi một cá-nhân, mà còn có thể là nét đặc trưng của cả một nhóm: làng Cự Đà nổi tiếng với nghề gia-truyền làm tương, làng Hành-Thiện nổi-tiếng là làng Nho học từ xưa, có nhiều người học hành đỗ đạt...

Bên Mỹ này, ba phần tư chủ-nhân tiệm làm móng tay vùng California là người Việt-Nam, trong khi người Đại-Hàn thành-công với nghể giặt ủi và người Trung Hoa nổi-tiếng với nghề tiệm ăn. 
Nước Thuỵ-Sĩ, nuớc của đồng-hồ, còn nổi-tiếng với ngân-hàng và cơ-sở tài-chánh. Nước Pháp nổi-tiếng nhờ rượu vang, thức ăn, đồ xa-xỉ-phẩm như nước hoa, quần áo, ... Nước Đức, nước Bỉ được biết đến nhờ rượu bia,...Những nuớc Trung-Đông thì được Trời ban cho dầu-hoả. 
Trong ngành thể-thao, Trung-Quốc đứng đầu với môn bóng bàn, nước Ba-Tây với môn bóng đá, ...

Nói tóm lại, khó ai có thể nói "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh" là sai, như lịch-sử đã chứng minh từ ngàn đời nay.

Chỉ có điều, thời buổi này thay đổi nhiều và nhanh quá, một nghề đang thịnh hôm nay, ngày mai có thể chết: máy vi-tính đã giết nhiều nghề trong ngành kế-toán và nghề bàn giấy, Internet đã làm đảo điên những nghề điã nhạc, phim ảnh, báo chí, bưu-điện, ...

Bách nghệ tinh, ...

Như đã nói,  "Một nghề thì sống, đống nghề thì chết". 
Cũng như "Jack of all trades, master of no one" (= cái gì cũng làm thì không giỏi cái gì được). Ôm đồm quá chỉ có hại.


Nếu có một ngoại-lệ đáng kể nhất thì chắc hẳn phải nhắc đến Leonardo di ser Piero da Vinci (Leonardo, con của Ser Piero, đến từ Vinci, Ý Đại Lợi), thường được gọi là Leonardo da Vinci. Ông được coi là một thiên-tài toàn năng: họa sĩ (bức tranh nổi tiếng nhất là Mona Lisa), nhà điêu-khắc, nhạc sĩ, bác sĩ, nhà giải-phẫu, kỹ sư, kiến-trúc sư, nhà sáng tạo và triết gia. Có lẽ tự cổ chí kim, trên đời này không còn ai biết nhiều, hiểu rộng hơn ông.

Nói đến bách nghệ, bên Pháp có trường Bách Khoa Paris (École Polytechnique) còn được nhắc đến với tên X, thành-lập năm 1794, là trường cao-đẳng đại-học đào tạo k sư nổi tiếng nhất tại Pháp.
Mục đích truyền thống của các sinh viên Polytechnique (Polytechniciens) là trở thành nhân lực cao cấp của quốc gia và mục đích này vẫn còn được tiếp tục cho đến ngày nay.
Tuy vẫn được nhắc đến như đào tạo đại-học, nhưng trên thực tế chương-trình học luôn vượt khá xa so với chương-trình đại-học khoa-học bình thường.
Thêm vào đó, chương-trình học thường rất rộng, sinh viên thường tiếp cận các môn học nằm ngoài chuyên ngành của mình. Triết lý "rộng hơn sâu" đã gây nên rất nhiều tranh cãi từ nhiều năm nay, nhưng điều này đã làm nên tính đặc-trưng của chương-trình học Polytechnique. 
Thực tế cho thấy, sinh viên sau khi tốt nghiệp, đa số có một nền tảng khoa-học cơ-bản rất chắc chắn, giúp họ dễ dàng đào sâu vào bất cứ chuyên ngành nào trong thời gian ngắn hơn nhiều so với một sinh viên đại-học bình thường. 
Trong môi trường làm việc, phần lớn các cựu sinh viên Polytechnique đều trở thành Giám-Đốc, Tổng-Giám-Đốc trong những hãng tư hay viên-chức cao-cấp trong chính phủ, không ai là không thành công cả.

Mặt khác, bất cứ bộ-trưởng, thủ-tướng, tổng-thống Pháp nào cũng đều xuất thân từ Trường Quốc Gia Hành Chánh (Ecole Nationale de l'Administration, gọi tắt là E.N.A.) hay ít nhất là trường Cao Học Chính Trị (Institut d'Etudes Politiques de Paris, gọi tắt là Sciences Po).


Mẫu số chung của các trường này là chương trình học rất rộng và nhất là cách giảng dạy tập cho sinh-viên một lối suy-nghĩ đặc thù của những nhà lãnh-đạo: phân-tích và hiểu rất nhanh qua những điểm chính-yếu để quyết định. Điều này cũng dễ hiểu vì vai-trò một lãnh-đạo là chỉ đường (đạo), là quyết định để người khác thi hành.

Như vậy, một nhà lãnh đạo không thể là một chuyên-gia.


Vẫn bên Pháp, nếu ngược giòng thời gian lên thế kỷ thứ 17, ta sẽ có khái-niệm "Honnête Homme" làm mẫu-mực nhân-tính (modèle d'humanité) cho nam-giới quí-tộc cũng như tư-sản thời đó. Khái-niệm "Honnête Homme" này hầu như chỉ có bên Pháp, tôi chỉ có thể tạm dịch là "Quân-tử Pháp" coi như là gần nhất.
Người Quân-tử Pháp phải là một người có kiến-thức rộng và là người hoạt-bát, nhưng phải biết lịch-sự và khiêm-tốn. 
Nói về sự hiểu-biết, người Quân-tử Pháp là người toàn-năng, có óc tổng-quát hơn là chuyên-môn (Blaise Pascal đã từng khẳng-định "il est plus beau de savoir quelque chose sur tout que de savoir tout d'une chose" = Biết chút ít về tất cả mỹ miều hơn là biết tất cả về một thứ). Người này có đầu óc mở rộng và hiếu kỳ.
Nói về nhân-tính, người Quân-tử Pháp phải biết cân-bình giữa Thân và Tâm, biết chừng mực, trọng sự cân-đối hài hòa (điểm này có đôi phần tương-tự với pháp Trung-Dung).
Ngoài xã-hội, người này lịch sự với đàn bà (galant), nhã nhặn, cởi mở, có duyên (nhưng vẻ hài-hước dí dỏm của ông là loại tế-nhị làm người khác mỉm cười).
Nói tóm lại, lý-tưởng "Honnête Homme" là một mẫu người đi ngược lại quan-niệm "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", tuy rằng "nghệ" ở đây chỉ-định nghề-nghiệp nuôi thân chứ không nghĩa rộng như quan-điểm "Honnête Homme".

Nói đến đây, tôi lại nhớ đến một nhân-vật thật đặc sắc: Sir Richard Branson, một doanh-nhân tỷ phú người Anh, bỏ học từ lúc 15 tuổi và ngày hôm nay là chủ nhân của nhóm Virgin, với hơn 400 công-ty và 55.000 nhân viên trên toàn cầu và trong mọi địa-hạt: đĩa nhạc, điện-ảnh và truyền hình, thể thao, du lịch, hàng không và xe lửa, nước uống và thực phẩm, ... Ông còn rất quan-tâm đến những vấn đề ô-nhiễm và từ-thiện. 
Chủ-trương của ông là nếu biết kinh-doanh thì mình vẫn có thể thành công trong bất cứ ngành nào.
Ông đã được vinh danh và được lãnh nhiều giải toàn cầu, ông cũng đã được phong "Hiệp sĩ" (knight) bởi Hoàng-tử Charles.
Trên phương-diện cá-nhân, ông là một thể-thao gia có hạng (máy bay, thuyền buồm, kite board, khí cầu đốt lửa / montgolfière với vài kỷ-lục đã được thâu nhận, ...), và (dĩ nhiên) ông là một tay Playboy khét tiếng.

Lại một bách nghệ gia.

Nhất nghệ hay bách nghệ?

Đào sâu hay đào rộng? Đặt câu hỏi cho có lệ chứ đương nhiên là khía cạnh nào cũng có cái hay cái dở, điểm lợi điểm bất lợi, và đừng quên điểm chính là phải phù-hợp với cá-tính và khả năng của mỗi người. Như đã xem, nhất nghệ hay bách nghệ đều có thể thành công (hay thất bại) như nhau, lại trở về số-phận của mỗi người thôi.


Riêng trong trường-hợp tôi, chắc hẳn câu "Jack of all trades, master of no one" là đúng hơn hết. Thuở đi học, tôi đã chọn kỹ-sư thay vì bác sĩ vì tôi sợ học thuộc lòng, sau đó tôi học thêm một năm về quản-trị xí-nghiệp rồi bắt đầu đi làm với trách-nhiệm quản-lý những chương-trình huấn-luyện nhân-viên (Responsable formation / Training manager).
Tôi học kỹ-sư về kim-loại, đi làm trong những hãng/xưởng kim loại suốt 15 năm để rồi sau cùng vẫn chả biết gì về kim loại, vì tôi làm toàn những nghề "tổng quát" trong những địa hạt nhân sự (Ressources humaines / Human resource), quản lý (Management) hay Quality (ngành này hình như ít thấy ở Việt-Nam, tôi không biết phải dịch là gì, có lần tôi đọc được trên Mạng danh từ "Quản lý Chất lượng tổng quát" để chỉ định Total Quality Management thì thấy nó "kỳ kỳ" làm sao ý). 
Đã có lần đi phỏng vấn, một nhà tuyển dụng (recruiter) đã định-nghĩa tôi là một "kỹ sư văn chương", đúng là nửa người, nửa ngợm (nửa đười ươi)!
Sau đó, tôi ra làm riêng trong nghề cố-vấn Quản-lý (Management consulting) và đã may mắn có dịp tiếp xúc với gần 300 công-ty trong những địa-hạt rất khác biệt: ngân hàng, bảo-hiểm, kế-toán, thương nghiệp, giáo-dục, thông tin đại chúng, năng lượng và nước, cơ-quan nhà nước, nhà in (trong đó có in tiền và in tem bưu-điện), Công chánh, hóa học, dầu hỏa, ...
Tính tôi hiếu kỳ lắm, tôi thích học hỏi trong rất nhiều ngành: tâm-lý, xã-hội, triết, lịch-sử, âm nhạc, văn chương, nhiếp ảnh, ...
Nói về ăn, tôi đã thử rất nhiều thức ăn trên thế-giới và đi ăn hiệu, tôi thường gọi những món tôi chưa bao giờ ăn. Thích ăn nên tôi cũng biết "lăn vào bếp".
Nói về nhạc, tôi nghe đủ loại: cổ điển, Rock, Pop, Jazz,... cũng như nhạc thuần-túy các nước (World music), chỉ trừ có nhạc Rap thì nghe chưa lọt tai.
Du-lịch thì tôi đã được đi thăm viếng rất nhiều vùng trong rất nhiều quốc-gia.

Nhưng nói cho cùng, tôi đã trở thành bách-khoa một phần vì nhu-cầu đưa đẩy mà thôi. Lúc trước, gia-đình tôi không được khá giả lắm, thịt cá trên bàn ít nên tôi chỉ có nước xuống bếp thanh toán trước nào đầu gà, cổ gà, chân gà, nào xương heo, xương bò, nào hột xoài, nào cùi dừa, ... và tôi đã tập ăn đủ thứ (tôi quan-niệm bất cứ món gì, nếu đã có người thích và ăn thì tôi cũng có thể thấy ngon).

Khi đi du-học thì bất đắc dĩ tôi đã phải học nấu ăn, giặt giũ, là quần áo, khâu vá, lên gấu quần, tự cắt tóc, ... và đi làm hè để kiếm thêm tiền.
Lúc ra làm riêng, tôi đã phải tập kế-toán, lo việc hành chánh, sửa chữa máy vi-tính, đi tìm khách, làm đủ mọi nghề.
Trong nhà thì tôi đâm ra hí hoáy, sửa chữa lặt vặt (bricoleur / handy man), việc gì quẫn kẹt lắm mới phải gọi thợ.
Tất cả cũng vì nhu-cầu đòi hỏi thôi, chả vì giỏi giang gì.

Và cuối cùng, câu "master of no one" lại càng áp dụng cho tôi. Tôi đào rộng nhưng không sâu nên gặt hái thì chả được bao nhiêu. 

Ngày hôm nay, anh kỹ sư về hưu cũng chỉ "tàng tàng", chả giàu chả sang, chả nghèo chả đói. Sửa chữa gì ở nhà thì được chứ ra ngoài thì làm gì dám? Nấu ăn thì không sợ đói nhưng không thể nói là tay đầu bếp giỏi. Tán phét thì đề-tài gì cũng nhảy vào, nhưng vào chi-tiết chút thì lại nhảy ra. Về nhạc thì đàn gẩy phừng phừng để tự đệm chơi ở nhà chứ lên sân-khấu thì xấu mặt vợ lắm, và hát thì chỉ hát đỡ cho vợ lấy hơi lại thôi. Văn thơ thì không dám tự xưng văn sĩ, thi sĩ gì cả. Thể thao thì món gì cũng chỉ trung bình.
Đôi khi, nhìn chung quanh mình, cũng cảm thấy chút tủi thân lắm (hic hic).


Nhất nghệ, bách nghệ, vạn nghệ, miễn là có nghề nuôi thân là mừng rồi. Bàn cho vui, cho qua ngày, qua tháng vậy thôi chứ mỗi người một tính, mỗi người một số phận, bước qua sao khỏi?
Tuy nhiên, có một nghề mà đàn ông chúng ta không bao giờ có thể thể lơ là được là nghề phụng-sự vợ, có đúng như vậy không các chị?

Yên Hà, tháng 8, 2013