1. Thời-đại thượng-cổ
1.1 Kỷ Hồng Bàng thị (2879-258 trước Tây Lịch)
./.
1.2 Kỷ nhà Thục (257-207
trước Tây lịch)./.
Sử chép rằng Thục Vương hỏi
con gái của Hùng Vương thứ 18, là Mỵ Nương không được, trong bụng lấy làm tức giận, dặn con cháu ngày
sau đánh báo thù lấy nước Văn Lang. Hùng Vương bấy giờ cậy mình có binh cường
tướng dũng, bỏ trễ việc nước, chỉ lấy rượu chè làm vui thú. Người cháu Thục
Vương tên là Phán, biết tình thế ấy, mới đem quân sang đánh lấy nước Văn Lang.
Hùng Vương thua chạy, nhảy xuống giếng mà tự
tử.
Năm giáp thìn (257 trước Tây lịch), Thục Vương dẹp yên mọi nơi rồi, xưng là
An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê (nay thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc An).
(Nhà Thục chép trong sử nước ta không phải là nước Thục bên Tàu, vì rằng cứ
theo sử nước Tàu thì đời bấy giờ đất Ba Thục (Tứ Xuyên) đã thuộc về nhà Tần cai
trị rồi, thì còn có vua nào nữa, Huống chi lấy địa lý mà xét thì từ đất Ba Thục
sang đến Văn Lang (Bắc Việt), cách bao nhiêu đường đất và có bao nhiêu núi sông
ngăn trở, làm thế nào mà quân nhà Thục sang lấy nước Văn Lang dễ dàng như vậy ?
Sử cũ lại có chỗ chép rằng An Dương Vương, họ là Thục tên là Phán. Sách
"Khâm Định Việt Sử" cũng bàn như thế.)
Hai năm sau là năm bính ngọ (255 trước Tây Lịch), An Dương Vương xây Loa
Thành. (Thành cao và từ ngoài vào thì xoáy trôn ốc, cho nên mới gọi là Loa
Thành.) Hiện nay còn dấu tích ở làng Cổ
Loa, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc An.
Sự-tích Trọng Thuỷ-Mỵ Châu
Tục truyền rằng khi An Dương Vương xây Loa Thành, có những
yêu quái quấy nhiễu, xây mãi không được. An Dương Vương mới lập đàn lên cầu khấn,
có thần Kim Qui hiện lên bày phép
cho vua trừ những yêu quái đi, bấy giờ mới xây được thành. Thần Kim Qui lại cho
An Dương Vương một cái móng chân, để làm cái lẫy nỏ. Lúc nào có giặc thì đem
cái nỏ ấy ra bắn một phát, giặc chết hàng vạn
người.
Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc thì ở bên
Tàu, vua Thủy Hoàng nhà Tần, đã thống nhất thiên hạ. Đến năm đinh hợi (214 trước
Tây lịch), Thủy Hoàng sai tướng là Đồ
Thư đem quân đi đánh lấy đất Bách Việt (vào quãng tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng
Tây bây giờ). An Dương Vương cũng xin thần phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất
Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm ba quận,
gọi là: Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng Quận (Bách Việt).
Chẳng được bao lâu thì nhà Tần suy, nước Tàu có
nhiều giặc giã, ở quận Nam Hải có quan úy là Triệu Đà thấy có cơ hội, muốn mưu đánh lấy Âu Lạc để lập cho mình một nước tự chủ ở phương
nam.
Năm quý tị (208 trước Tây lịch), Triệu Đà đem quân sang
đánh nước Âu Lạc nhưng An Dương Vương đem nỏ thần ra bắn, Triệu Đà thua trận phải
chạy.
Triệu Đà dùng kế,
sai sứ đi giảng hoà, sai con là Trọng Thủy vào hầu làm túc vệ, cầu hôn con gái
vua là Mỵ Châu. Vua bằng lòng. Trọng Thủy dỗ Mỵ Châu để xem trộm nỏ thần, rồi
ngầm bẻ gãy lẫy nỏ, thay cái khác vào, giả vờ về Bắc thăm cha mẹ, bảo Mỵ Châu rằng:
"Ân tình vợ chồng không thể quên nhau, nếu lỡ hai nước không hòa, Nam Bắc
cách biệt, ta lại tới đây thì làm thế nào mà tìm thấy nhau? ". Mỵ Châu
nói: "Thiếp có cái nệm gấm lông ngỗng, thường mang theo mình, đi đến đâu
thì rút lông ngỗng rắc ở chỗ đường rẽ để làm dấu".
Trọng Thủy về kể lại với Triệu Đà tình đầu mọi sự, Triệu
Đà bèn khởi binh sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương cậy có cái nỏ, không phòng bị
gì cả, đến khi quân giặc đến gần chân thành mới đem nỏ ra bắn, thì không thấy
hiệu nghiệm nữa. An Dương Vương mới đem Mỵ Châu lên ngựa mà chạy về phía nam.
Chạy đến núi Mộ Dạ (thuộc huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An) gần bờ bể, vua thấy
giặc đuổi kíp quá, mới khấn Kim Qui lên cứu, Kim Qui lên nói rằng: "Giặc
ngồi sau lưng nhà vua đấy!" An Dương Vương mới vỡ lẽ, tức giận quá, rút
gươm muốn chém Mỵ Châu, Mỵ Châu khấn rằng: "Trung tín trọn tiết, bị người
đánh lừa, xin hóa thành ngọc châu để rửa thù nhục này". Cuối cùng vua vẫn
chém Mỵ Châu, máu chảy loang mặt nước, loài trai nuốt vào bụng, hóa làm hạt
minh châu. Chém Mỵ Châu xong, Vua nhảy xuống bể
tự tận.
Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng của vợ rắc, đem binh đuổi
đến núi Mộ Dạ, thấy xác vợ chết nằm đó, thương xót vô cùng, vội vàng đem về cấp
táng, xong rồi, nhảy xuống cái giếng ở trong Loa Thành mà tự tử.
Triệu Đà tuy là tướng nhà Tần nhưng lợi dụng lúc nhà Tần đã suy, nước Tàu
đang vào lúc đại loạn để sang chiếm lấy Âu-Lạc, gồm cả các quận ở phương nam, lập
làm một nước tự chủ, nên lịch-sử không xem thời-đại này như Việt-Nam bị Tàu
đô-hộ.
1.3 Kỷ nhà Triệu (207-111 trước Tây lịch)
Năm quí-tị (207), Triệu Đà đánh được An-dương-vương rồi, sáp-nhập nước Âu-lạc vào quận
Nam-hải, lập thành một nước gọi là Nam-Việt,
tự xưng làm vua, tức là Vũ-vương, đóng đô ở Phiên-ngung, gần thành Quảng-châu
bây giờ.
Năm Giáp Thìn (137 trước Tây lịch), Triệu Vũ Vương mất năm 121 tuồi, làm vua được hơn 70 năm.
Ảnh: Tượng thờ Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) đặt tại đình làng Xuân Quan (Hưng Yên)
Họ Triệu tiếp tục với:
- Triệu Văn Vương là con trai trưởng của Trọng Thuỷ
- Triệu Minh Vương
- Triệu Ai Vương
- Triệu Dương Vương.
Năm Giáp Thìn (137 trước Tây lịch), Triệu Vũ Vương mất năm 121 tuồi, làm vua được hơn 70 năm.
Ảnh: Tượng thờ Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) đặt tại đình làng Xuân Quan (Hưng Yên)
Họ Triệu tiếp tục với:
- Triệu Văn Vương là con trai trưởng của Trọng Thuỷ
- Triệu Minh Vương
- Triệu Ai Vương
- Triệu Dương Vương.
Dương-Vương mới lên làm
vua được độ một năm thì vua Vũ-đế nhà Hán sai Phục-ba tướng-quân là Lộ-Bác-Đức
và Dương Bộc đem 5 đạo quân sang đánh lấy Nam-Việt. Quan Thái-phó Lữ Gia ra chống
cự không nổi, phải đem Dương-Vương chạy. Quân nhà Hán đuổi theo bắt được, vua
tôi đều bị hại cả.
Năm canh-ngọ (111 tr. Tây-lịch), nước Nam bị người Tàu chiếm lấy, cải là Giao-chỉ-bộ, chia ra làm 9 quận, và đặt quan cai- trị như các châu quận bên Tàu vậy.
Thời-đại Bắc-Thuộc khởi đầu.
./.
Yên Hà, tháng 3, 2016
Tài-liệu nguồn :
- Việt-Nam Sử-Lược (1919) :
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.